Trang

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

Nguyen bac Truyen

Nhà nước CHXHCN Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc vào ngày 20/9/1977.
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam tham gia Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền LHQ (1948)
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (1966).
- Nhà nước CHXHCN Việt Nam ban hành Luật ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước Quốc tế năm 2005.

Tổ chức Human Right Watch vừa ra tuyên bố "yêu cầu Nhà nước CHXHCN Việt Nam xét xử vụ án ông Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ đảm bảo tính công bằng". Chúng ta cùng tìm hiểu việc "xét xử công bằng" theo quy định của Luật pháp quốc tế được thể hiện cụ thể như thế nào?

Theo Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948) và Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (1966), quyền xét xử công bằng là quyền căn bản, hòn đá tảng trong hệ thống bảo vệ nhân quyền quốc tế. Luật quốc tế bảo vệ những người bị bắt giữ vì cho rằng khi bị cáo buộc tội danh hình sự thì bị cáo sẽ phải đối mặt với cả một guồng máy nhà nước, mà ở đó nhân phẩm, thân thể, tính mạng của bị cáo...có thể bị đe dọa bởi sự lạm dụng quyền hạn của nhân viên công lý trong khi thực thi pháp luật. Do đó, "xét xử công bằng" có nghĩa là cho đương sự được bình đẳng về vũ khí (phương tiện) và cơ hội trong phiên xử. Các bên liên quan đến vụ án phải được đối xử ngang nhau khi tham dự phiên toà, nghĩa là phải được thông tin giống nhau, được trình bày và biện hộ trong những điều kiện như nhau. Muốn bảo đảm cho việc xét xử được công bằng thì quyền của bị cáo phải được bảo vệ nghiêm chỉnh từ khi người đó bị bắt cho đến khi có bản án chung thẩm (hoặc giám đốc thẩm).

Luật quốc tế bảo vệ quyền được suy đoán là vô tội. Theo đó, một người phải được xem là vô tội cho đến khi tội trạng của người đó được một tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị chứng minh trong một phiên xử công khai mà người đó có đầy đủ quyền bào chữa. Như vậy trước khi có một bản án có hiệu lực thì người bị giam giữ hoặc bị cáo vẫn được xem là người vô tội và phải được mọi thành phần tham gia vụ án đối xử như là một người vô tội.


Nội dung của xét xử công bằng

A/ Tiền xét xử:

- Nghiêm cấm việc biệt giam, tra tấn, hành hạ, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục để ép cung hay khảo cung người bị giam giữ hay bị cáo;
- Người bị giam giữ hay bị cáo có các quyền: không bị bắt giữ tùy tiện (trái pháp luật), được thông báo lý do ngay khi bị bắt, được quyền xuất hiện tức thời trước một thẩm phán để tranh luận về tính hợp pháp của việc bắt giữ; được đem ra xét xử mau chóng;

- Người bị giam giữ hay bị cáo được gặp mặt luật sư ngay khi bị bắt và trong suốt thời gian giam cứu, được quyền yêu cầu luật sự có mặt trong các buổi thẩm vấn để tư vấn cho mình; được tiếp xúc riêng với luật sư (nhân viên công lực có thể có mặt nhưng phải giữ một khoảng cách chỉ đủ thấy chứ không thể nghe);

- Người bị giam giữ hay bị cáo phải có đầy đủ thời gian và phương tiện thích hợp để chuẩn bị tốt cho việc bào chữa như được tiếp cận với những thông tin, hồ sơ và chứng từ cần thiết cho việc bào chữa;
- Người bị giam giữ hay bị cáo được có thông dịch viên nếu không hiểu được ngôn ngữ thẩm vấn viên (hoặc quan tòa) và được gặp cơ quan đại diện ngoại giao mà bị cáo có quốc tịch nếu bị cáo là người nước ngoài.
- Người bị giam giữ hay bị cáo được gặp mặt thân nhân, bạn bè (tránh bị cô lập làm ảnh hưởng đến tinh thần);
- Người bị giam giữ hay bị cáo có thể được khám bác sỹ riêng theo yêu cầu (tự thanh toán chi phí); không bị giam giữ chung với người đã có án, mang bệnh lây nhiễm (một số nơi dùng biện pháp này để khủng bố bị cáo); phòng giam phải có ánh sáng tự nhiên, thông thoáng; được cung cấp nước đủ để uống, nước để tắm giặt và vệ sinh; được quyền đọc sách, báo hoặc nhờ mua các ấn phẩm được phát hành công cộng, phổ thông.


B/ Trong phiên tòa, bị cáo được quyền:

- Bị cáo được quyền ra tòa để được xét xử về một tội trạng bị cáo buộc;
- Quyền được hỗ trợ pháp lý miễn phí (luật sư được mời có đủ năng lực và không có quyền lợi đối kháng với bị cáo) nếu không có điều kiện mời luật sư riêng; Được quyền mời "nhân chứng giải tội" (trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng về vũ khí giữa buộc tội và giải tội).
- Bị cáo phải được xét xử công khai. Một phiên tòa bí mật sẽ làm mất niềm tin vào công lý và có thể xét xử bất công nếu thiếu sự giám sát của công chúng (người dân, báo chí, tổ chức nhân quyền, đại diện các cơ quan ngoại giao...). Công khai cũng có nghĩa là công chúng được thông báo sớm về thời gian và địa điểm xử án trên phương tiện truyền thông; địa điểm này phải thuộc về địa phương của bị cáo (nếu bị bắt tại nơi cư ngụ và nghi ngờ phạm tội nơi cư ngụ) và phải thuận lợi cho việc đi lại; phòng xử phải đủ rộng để công chúng tự do tham dự; bị cáo phải có mặt trước tòa. Nếu đưa ra lý do "an ninh quốc gia" để hạn chế việc xử công khai, thì những lý do này phải thực sự hợp lý (trong một đất nước có nền dân chủ thật sự, quốc gia trong tình trạng khẩn cấp, chiến tranh).
- Bị cáo được quyền ra trước một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị (để loại trừ cơ quan hành pháp buộc tội oan sai). Một tòa án có thẩm quyền là một tòa án được thành lập theo luật định, có nhân sự đủ năng lực xét xử về chủ đề liên quan. Một tòa án độc lập là một tòa án không bị ảnh hưởng của ngành hành pháp, lập pháp và nhất là của đảng cầm quyền. Bản án sẽ là kết quả của việc tranh tụng giữa các bên trong phiên xử chứ không phải được sắp đặt từ trước. Một tòa án thiên vị là một tòa án xử theo thành kiến (nhằm bảo vệ cho công tố, công an, chính đảng,...).
- Bị cáo có quyền được suy đoán vô tội: Trong suốt phiên xử, thẩm phán phải xem bị cáo là người vô tội. Công tố có trách nhiệm đưa ra chứng cớ chứng minh bị cáo có tội. Bị cáo có quyền đưa ra chứng cớ giải tội. Trong trường hợp không chắc chắn về chứng cứ buộc tội thì thẩm phán phải suy diễn có lợi cho bị cáo. Quyền được suy đoán vô tội được thể hiện khi bị cáo không bị bắt mang xiềng, còng, áo tù hay quần áo lôi thôi khi ra trước Tòa.
- Bị cáo có quyền từ chối trả lời (quyền im lặng) để không tự buộc tội mình hay khỏi phải thú nhận tội trạng trong giai đoạn điều tra và trước toà. Sự im lặng của bị cáo không thể bị tòa diễn dịch là sự đồng ý với lời buộc tội, cũng không phải là chứng cớ để buộc tội.
- Bên bào chữa có quyền bình đẳng với bên công tố trong suốt phiên xử. Bị cáo được quyền biết về các chứng cứ buộc tội. Phía công tố phải thông báo trước cho phía luật sư /bị cáo về các nhân chứng được mời ra hầu tòa. Thời gian thông báo phải đủ cho phía bào chữa chuẩn bị các "nhân chứng giải tội" hay lời bào chữa. Phía bào chữa được quyền chất vấn nhân chứng. Bị cáo có quyền có mặt trong phần chất vấn nhân chứng. Bị cáo được quyền phản cung, được quyền tố cáo các hành vi tra tấn, nhục hình, ngược đãi mình đã phải gánh chịu. Các chứng cớ dùng để buộc tội bị cáo của cơ quan điều tra bị xem là không có giá trị khi Tòa xác minh bị cáo đã bị tra tấn, khảo cung...trong khi thẩm vấn.
- Quyền kháng cáo và quyền nhận được bồi thường nếu bị cáo nhận thức mình bị xét xử oan sai, vi phạm pháp luật.
- Quyền không bị xét xử hai lần vì một tội hình sự. Quyền này cũng nhằm ngăn chặn cả việc xử một tội dưới hai tội danh khác nhau.


Các tài liệu tham chiếu

A/ Tham chiếu Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948):

Ðiều 10:
Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử công khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.

Ðiều 11:

1. Khi truy tố trước pháp luật, mọi người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ của đương sự.

2. Không ai có thể bị kết án khi có những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp xảy ra.

Ðiều 12:
Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những xâm phạm và xúc phạm như vậy.

B/ Tham chiếu Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (1966):

Phần III (Điều 6 - 27) liệt kê các quyền được Công ước bảo hộ, bao gồm các quyền sau:

· Quyền toàn vẹn thân thể, tức là quyền được sống, không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ (Điều 6, 7, và 8);

· Quyền tự do và an toàn nhân thân, tức là quyền không bị bắt và bỏ tù vì các lý do không chính đáng (Điều 9 – 11);

· Quyền bình đẳng trước luật, và mọi cáo trạng phải đúng trình tự pháp luật. Bị cáo về các tội hình sự có quyền được chấp nhận là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật. (Điều 14, 15, và 16);

C/ Tham chiếu Luật ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế (2005):

Điều 3, khoản 6: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đồng thời có quyền đòi hỏi thành viên khác cũng phải tuân thủ điều ước quốc tế đó.

Điều 6, khoản 1: Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

Sài gòn, 1/8/2011

Nguyễn Bắc Truyển (danlambao)
danlambaovn.blogspot.com

. Bookmark the permalink.

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

Bản điều trần cứu nước . Tống Văn Công

Kính gửi Đồng bào kính yêu và Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam

Năm 17 tuổi tôi thoát ly gia đình làm nhân viên Ty Giáo dục kháng chiến tỉnh Bến Tre, 19 tuổi vào bộ đôi Cụ Hồ, có tên Vệ quốc đoàn, nghĩa là đoàn giữ nước. Trên con đường ấy, tôi trở thành đảng viên cộng sản, “không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” (Hồ Chí Minh). Tư tưởng “Không có gì quý hơn Độc lập Tự do” đã củng cố niềm tin cho tôi suốt đời. Mang niềm tin ấy, tôi đã xem mọi sai lầm của Đảng, chỉ là do ấu trĩ, rồi sẽ vượt qua trên bước trưởng thành.

Năm 2009, trong tâm trạng vô cùng bức xúc, tôi viết bài “Đổi mới Đảng, tránh nguy cơ sụp đổ”, nhấn mạnh hai hiểm họa trước Tổ quốc: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm. Từ đó cho đến Đại hội 11, rất nhiều cán bộ đảng viên, có cả nguyên ủy viên Bộ Chính trị, rất đông đảo trí thức trong và ngoài nước góp nhiều ý kiến sâu sắc để đổi mới toàn diện, đổi mới chính trị tương ứng với đổi mới kinh tế, đổi mới kinh tế không bị kiềm hãm bởi ý thức hệ. Tiếc thay, Đại Hội 11 không tiếp thu xác đáng. Những người góp ý trung thực, thẳng thắn, bị nghi ngờ là có dụng ý xấu, thậm chí là phản động, chống đường lối của Đảng.


Nay, giặc ngoại xâm lăm le ngoài ngõ, láo xược lấn lướt gấp bội phần năm 2009. Thời báo Hoàn Cầu, tiếng nói chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc viết: “Phải sẵn sàng hai kế hoạch: Thương lượng với Việt Nam về giải pháp hòa bình; hoặc đánh trả bằng chính trị, kinh tế, thậm chí cả quân sự”. Báo điện tử Trung Quốc Binh khí đại toàn kêu gọi: “Hãy giết bọn giặc Việt Nam làm vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa!”. Hơn nửa thế kỷ trước, cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã nhận định: “Bắc kinh từ lâu có âm mưu bành trướng về hướng Đông Nam Á, xâm chiếm nước ta”. Tháng 9 năm 1975, trong chuyến sang Trung Quốc, ông đã nói thẳng với Trung Quốc phải trả lại Hoàng Sa của Việt Nam. Tiếc thay, chúng ta đã vội quên những điều ấy!

Giặc tham nhũng cũng lớn lên rất nhanh, từ một vài “con sâu” đã sinh sôi cả “bầy sâu” (Thường trực Bộ Chính trị Trương Tấn Sang). Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, tham nhũng là “kẻ thù của nhân dân” là do ”không dân chủ”, cho nên “muốn chống tham ô, lãng phí, quan liêu thì phải dân chủ”.

Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy hai thứ giặc ngoại xâm và tham nhũng luôn luôn đồng hành cùng nhau, câu kết với nhau.

Mặc dù, lần này Chính phủ Việt Nam phản ứng cuộc gây hấn của Bắc Kinh có mạnh mẽ hơn trước, tuy nhiên, chưa có sự thay đổi về bản chất, tức là chưa có tiền đề để Đảng với Dân một ý chí. Thật đau lòng và hổ thẹn xiết bao khi phải chứng kiến lực lượng cảnh sát săn đuổi, tóm cổ, kéo lê những sinh viên như Phan Nguyên như bắt con thú hoang, chỉ vì dám đi biểu tình chống người bạn vàng Trung Quốc xâm lược!

Nhân dân đã bắt đầu căm giận. Làn sóng ngầm đang hình thành. Hãy nghe tiếng nói khách quan nhất của André Menras – Hồ Cương Quyết, một người Pháp tha thiết yêu chính nghĩa Việt Nam, tự nguyện trở thành người Việt Nam, từng bị chính quyền Sài Gòn bỏ tù vì đấu tranh cho Việt Nam, nay đã căm phẫn kêu lên: “Nói ngắn gọn, họ chỉ có thể là bọn xâm lược Việt Nam và những tay sai. Họ sử dụng từ ngữ dối trá, họ đúng là bọn phản động, chống minh bạch, sợ sự thật, sợ nhân dân, vì họ chỉ biết cái túi và cái ghế tạm thời của họ”. Phải nói như vậy chắc rằng ông ấy đau lòng lắm, và tôi cũng rất đau lòng lại phải nói ra đây!

Tổ quốc đang cần một Hội nghị Diên Hồng thời đại nhưng chưa được tổ chức. Trong nỗi niềm “quốc gia hưng vong”, học người xưa, tôi mạnh dạn viết Bản điều trần này, dù chắc chắn chưa đạt được chữ Trí, xin được coi đây là một tiếng nói trong triệu triệu tấm lòng của con dân nước Việt.

THỜI ĐẠI CHÚNG TA ĐANG SỐNG

Hơn hai trăm năm qua, dù trải qua nhiều khúc khuỷu, nhân loại vẫn tiến bước theo xu thế xóa bỏ độc tài, thực hiện Tự do, Dân chủ, Nhân quyền. Theo S. P. Huntington, sự sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa gồm Liên Xô và các nước Đông Âu vào cuối thập kỷ 80 là đợt dân chủ hóa thứ 3 của nhân loại. Ông qua đời năm 2008, không được chứng kiến Mùa Xuân Nhân dân khởi đầu từ Bắc Phi, là đợt dân chủ hóa thứ 4, để góp thêm nhận định: Những chế độ độc tài tưởng như rất vững mạnh vẫn có thể đổ nhào khi nhân dân bừng tỉnh!

Do thiếu thông tin, những người cộng sản Việt Nam không biết rằng chủ nghĩa tư bản hoang dã mà Marx, Engels quan sát đầu thế kỷ 19 đã thay đổi đến mức có học giả cho rằng nó gần như không còn là nó nữa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 đã đưa nhân loại vào nền văn minh hậu công nghiệp, với nền kinh tế tri thức, người lao động có tri thức khoa học công nghệ cao hơn người quản lý công ty. Những cải cách liên tục của chủ nghĩa tư bản đã biến công nhân từ người làm thuê thành người có cổ phần và là người tiêu dùng; xã hội đạt tới sự cân bằng giữa phát triển với bình đẳng; những nhà nước phúc lợi ra đời. làm cho những thân phận cơ nhỡ nhất cũng sống được, khiến các nhà nghiên cứu xô viết phải kinh ngạc kêu lên “Nhân dân nước họ được hưởng nhiều xã hội chủ nghĩa hơn ở Liên xô!”. Sau cơn choáng, nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam ở cấp cao cũng đã nhìn nhận rằng nguyên nhân sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa là do nhân dân và cả đảng viên chán ghét chế độ thiếu tự do, dân chủ, đưa tới quan liêu, tham nhũng, kiềm hãm phát triển. Sau khi thay đổi thể chế, các nước Đông Âu đã đạt được tốc độ phát triển nhanh gấp hằng chục lần thời xã hội chủ nghĩa.

Thế giới chỉ còn 5 nước do Đảng Cộng sản cầm quyền, ba nước đổi mới kinh tế là Trung Quốc, Việt Nam, Lào đã phát triển khá nhanh, nhưng nay đã bắt đầu lộ ra sự không tương thích giữa cơ sở kinh tế với chế độ chính trị, tiêu cực nảy sinh ngày càng lớn. Cu Ba và Bắc Triều Tiên kiên trì mô hình xã hội chủ nghĩa xô viết, cho nên vẫn tiếp tục nghèo đói. Gần đây lãnh tụ Fidel đã phải kêu lên “Mô hình Cuba không còn thích hợp nữa” và họ cũng đã bắt đầu cho tư nhân hóa nền kinh tế.

Thế giới diễn biến phức tạp, nhưng không phải là không thể lường trước, nếu như nắm vững quy luật, xu thế của thời đại, là Tự do, Dân chủ, Nhân quyền. Đấu tranh sắc tộc, mâu thuẫn tôn giáo vẫn còn, nhưng cái gọi là “đấu tranh giai cấp” đã nhường chỗ cho những đòi hỏi nhân quyền, như biểu tình, đình công. Qua dự thảo văn kiện Đại hội 11, và cuộc giao lưu trực tuyến mới đây, thấy các nhà tuyên giáo cao cấp của Đảng không hiểu điều này, coi biểu tình là hình thức bạo động quá khích!

Theo quan điểm dân chủ, nhân quyền, thì khái niệm độc lập, chủ quyền phải được xác định sau câu hỏi: “Người dân ở quốc gia nào đó đã có được một thể chế dân chủ, để người dân thực sự nắm được chủ quyền hay chưa?”. Đó là cơ sở lý luận để các nước dân chủ yểm trợ lực lượng nổi dậy gần đây. Hồ Chí Minh cũng đã có quan điểm như vậy khi ông nói: “Nếu nước được độc lập mà dân không được tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì.”

Sự xuất hiện một siêu cường Trung Quốc đang là mối lo của thế giới. Bởi vì lịch sử đã chứng minh rằng một quốc gia hùng mạnh nằm trong tay bọn cầm đầu độc tài thì tất yếu chúng sẽ gây chiến tranh. Bắc kinh đã vứt bỏ chiến lược “Thao quang dưỡng hối” (che ánh sáng, nuôi bóng tối) của Đặng Tiểu Bình, đang khua vang binh khí, lên giọng bá quyền. Thế giới lo một thì Việt Nam phải lo mười, bởi vì Bắc Kinh bên ngoài thì đưa “16 chữ vàng” phỉnh phờ lãnh đạo Việt Nam, bên trong không ngớt tuyên truyền kích động chủ nghĩa Đại Hán, lớn tiếng hò hét: “Kẻ cản đường phát triển của Trung quốc về phía Nam chính là tiểu bá Việt Nam, đang xâm chiếm biển đảo của Trung Quốc”.

TRUNG QUỐC CÓ ĐÁNG SỢ HAY KHÔNG?

Sau Mao, Đặng Tiểu Bình tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, đưa ra thuyết “mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn bắt được chuột”, thực chất là đưa Trung Quốc vào con đường phát triển tư bản hoang dã, nhưng vẫn giữ mô hình chính trị xô viết kiểu Stalin, bỏ hình thức độc tài cá nhân kiểu Mao, giữ chế độ độc tài một Đảng, tên gọi là Cộng sản, nhưng vứt hẳn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản như “sứ mệnh lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tham mưu…”. Tuy kinh tế phát triển nhanh chóng, nhưng trong nước công nhân và nông dân bị bần cùng, còn bên ngoài thì thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, câu kết với các thế lực cầm quyền độc tài tham nhũng ở Á, Phi, Mỹ La tinh, hòng vơ vét tài nguyên, xuất siêu hàng tiêu dùng rẻ tiền giá trị thấp, bán công nghệ lạc hậu, đưa lao động giản đơn định cư lâu dài khắp các nước. Việt Nam là một trong những nạn nhân của các mục tiêu thực dân ấy.

Từ năm 2009, thấy Mỹ sa lầy ở Iraq, Afganistan, lại lâm vào khủng hoảng kinh tế, thành con nợ lớn của Bắc Kinh, chúng nghĩ rằng thời cơ giành vị trí chúa tể khu vực đã tới. Chúng dùng ngay phép thử: Cho tàu hải quân vây sát tàu Impeccable của hải quân Mỹ. Mỹ phản ứng ôn hòa, chúng tin rằng đã nắm được thóp, ba tháng sau lấn thêm, cho tàu ngầm làm đứt cáp thiết bị định vị của tàu hải quân Mỹ. Mỹ vẫn cho rằng tàu Trung quốc không cố ý. Bắc Kinh càng tin chắc rằng Mỹ đã quá yếu nên phải nhún nhường, chúng liền cho Bộ Ngoại giao ra tuyên bố đòi các tàu hải quân Mỹ phải xin phép trước khi đi vào khu đặc quyền kinh tế của Trung Quốc.

Dằn mặt được Mỹ, Bắc Kinh liền thực hiện mưu đồ bành trướng xuống phương Nam mà cái gai phải nhổ là Việt Nam. Chúng cho tàu hải quân đâm chìm tàu ngư dân ta, bắt ngư dân nộp tiền chuộc, khiến nhiều chủ tàu tán gia bại sản, chúng ra lệnh cấm đánh bắt cá trên vùng biển của ta, để ngư dân của chúng tràn vào.

Nhiều năm nay dư luận cho rằng Việt Nam quá nhu nhược trước sự áp chế của Trung Quốc mà nguyên nhân chỉ vì lãnh đạo Việt Nam ở trong thế kẹt. Từ tháng 10 năm 2010, sau khi ngọai trưởng Mỹ H. Clinton tuyên bố tại Hà Nội rằng Hoa Kỳ có quyền lợi và trách nhiệm đối với an ninh Biển Đông thì Việt Nam và các nước trong vùng mới bắt đầu có tiếng nói tự tin hơn. Tuy nhiên so với cách ứng xử của một số quốc gia khác như Nhật, Philippines, Hàn Quốc… thì chúng ta vẫn còn quá nhu nhược, thiếu minh bạch, và nguy hiểm nhất là gây ra khoảng cách ngày càng xa giữa nhân dân với Đảng, Chính phủ.

Vậy hãy xem gót chân Achille của con ngoáo ộp Trung Quốc là đâu, để xác định rằng chúng có đáng sợ hay không.

1- Điểm yếu nhất của anh to xác Trung Hoa chính là chế độ độc tài khiến hắn mang sẵn trong cơ thể chứng bệnh nan y. Theo xu thế thời đại, sự sụp đổ của các chế độ độc tài chỉ là vấn đề thời gian. Mỗi năm Trung Quốc phải chống đỡ hằng trăm ngàn cuộc biểu tình và bạo động của nông dân mất đất nghèo đói. Nhân dân các vùng Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương chỉ chờ dịp Bắc Kinh bị lôi vào cuộc chiến với bên ngoài sẽ vùng lên đòi tự do. Tháng 5-2011, hàng ngàn người Mông Cổ biểu tình làm rung chuyển Tích Lâm và các huyện gần đấy. Nhiều vụ đánh bom liên tục xảy ra ở các tỉnh Giang Tây, Sơn Đông, Thành Đô, Hắc Long Giang, Thiểm Tây, thành phố Phúc Châu… Nhiểu cuộc biểu tình gây ra đụng độ giữa dân chúng và cảnh sát ở Quảng Châu, Hồ Bắc, Hà Nam, Quảng Đông, Tây Tạng, Lan Châu, Liêu Ninh, Bắc Kinh, Thượng Hải…

Nhiều nguồn tin cho rằng, bọn cầm quyền Bắc Kinh gây hấn với Viêt Nam vừa qua còn có mục đích kích động chủ nghĩa Đại Hán làm giảm áp lực chống đối ở trong nước. Tuy nhiên, chúng không lường được là gây chiến sẽ tạo thời cơ cho sự nổi dậy của quần chúng đang sục sôi chờ cơ hội.

2- Nền kinh tế Trung Quốc hiện nay chủ yếu dựa vào sản xuất hàng tiêu dùng, sử dụng lao động giản đơn, có giá trị thấp, giá nhân công rẻ, xuất khẩu ra toàn thế giới. Riêng Việt Nam hàng năm nhập siêu loại hàng này của họ khoảng 12 tỉ USD.

Gây chiến với Việt Nam, chúng nhằm chiếm trọn Biển Đông. Điều ấy xâm phạm lợi ích và an ninh toàn khu vực Đông Nam Á và cả Châu Á - Thái Bình Dương. Chẳng những Việt Nam bị nhốt, không có lối ra mà cả khu vực cũng bị nhốt. Trung Quốc sẽ trở thành lực lượng thao túng thế giới chà đạp lên luật pháp quốc tế. Phản ứng tối thiểu đầu tiên của khu vực, rồi loan ra toàn thế giới sẽ là tẩy chay hàng Trung Quốc. Hậu quả sẽ là đánh sập nền kinh tế xuất khẩu của cái “công xưởng thế giới” Trung Quốc, sẽ gây thất nghiệp đối với hàng triệu lao động giản đơn nghèo đói, sẵn sàng nổi loạn. Vấn đề kinh tế nhanh chóng trở thành chính trị có thể làm sụp đổ chế độ.

3- Nền kinh tế của chúng đang rất khát năng lượng. Đường vận chuyển dầu từ Trung Đông về Trung Quốc phải qua eo biển Malacca, qua Biển Đông. Nếu chiến tranh nổ ra, các đối thủ của Bắc Kinh sẽ không quá khó tìm cách triệt phá con đường tiếp vận mạch máu năng lượng nuôi sống nền công nghiệp có thiết bị lạc hậu tiêu hao năng lượng lớn thứ 2 thế giới. Khi đó lực lượng đặc công biển của Việt Nam sẽ có dịp trổ tài biến những tàu chiến Trung Quốc thành những quan tài thủy táng.

4- Nửa thế kỷ qua, với chính sách hiếu chiến, tham lam, Trung Quốc biến mình thành kẻ thù của nhiều nước – Liên Xô (nay là Nga), Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam, mới đây là Philippines, Brunei, Indonesia, Malaysia… Điều quan trọng là chế độ độc tài Bắc Kinh trong vị thế bị bao vây giữa các quốc gia dân chủ, đang là những tấm gương soi cho nhân dân Trung Quốc so sánh, căm giận và thêm khao khát tự do… Nếu tấn công Việt Nam, chúng nó không chỉ gặp lưỡng đầu mà sẽ là thập đầu thọ địch! Toàn khu vực, toàn thế giới sẽ bùng lên một phong trào ủng hộ và bảo vệ Việt Nam như những năm xưa.

Có lẽ bọn lãnh đạo Bắc Kinh không đến nỗi quá ngu muội không nhận ra những chỗ yếu đó, cho nên chúng chưa vội ra tay. Đừng sợ chúng, nhưng cũng đừng ảo tưởng vào thiện chí của chúng. Chúng sẽ ra tay khi tự cho rằng đã hóa giải được những “yếu huyệt” kể trên và ViệtNam chưa xử lý được những điểm yếu của mình. Chúng ta cần có ngay những quyết sách dũng cảm, sáng suốt để chạy đua với thời gian, trở thành vô địch trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Được như vậy, Bắc Kinh không còn dám khinh nhờn, đành phải chấp nhận Trung – Việt hòa bình, hữu nghị, và khi đó, “16 chữ vàng” mới có cơ may được thực hiện một cách bình đẳng.

ĐỂ VIỆT NAM TRỞ THÀNH “MỘT NHÂN VẬT QUAN TRỌNG CỦA THẾ GIỚI”!

Vấn đề là chúng ta có thể hiện được mình là một quốc gia đáng được trân trọng bảo vệ trước nhân loại tiến bộ ngày nay như đã từng được vinh danh là ”lương tâm nhân loại” như xưa kia hay không? Lịch sử đã ghi nhận công lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, Đảng chưa nhận ra đúng nguyên nhân cốt lõi đưa tới thắng lợi chính là tinh thần yêu nước của dân tộc. Lịch sử cũng đã ghi nhận nhiều sai lầm của Đảng Cộng sản Việt Nam do những chính sách xuất phát từ ý thức hệ, gây tác hại nghiêm trọng, kiềm hãm phát triển, để lại nhiều di hại, trong đó có hai hiểm họa là giặc ngoại xâm và giặc nội xâm! Ý thức hệ đã trói buộc Đổi mới với những khẩu hiệu chống diễn biến hòa bình, chống tự diễn biến, hòng tiếp tục duy trì tình trạng mà đồng chí Nguyễn Văn An đã sáng suốt chỉ tên là “lỗi hệ thống”. Những người bảo thủ không biết rằng chính Marx, Engels sau 25 năm công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, đến năm 1873 đã viết: “Những biện pháp cách mạng nêu cuối Chương 2, nếu ngày nay viết lại thì về nhiều mặt phải viết khác đi. Bởi vì nền đại công nghiệp đã có những tiến bộ hết sức lớn trong 25 năm qua” và “Chương 4: có những nhận định đã cũ rồi, vì tình hình chính trị đã hoàn toàn thay đổi” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà XB Sự Thật, Hà Nội, 1974, trang 8, 9). Từ năm 1866 trở đi hai ông chủ trương không tiếp tục xây dựng Đảng Cộng sản, mà bắt đầu xây dựng Đảng Xã hội dân chủ. Nhiều Đảng Cộng sản châu Âu theo chủ trương này đã đổi mới triệt để (Thụy Điển, Na Uy, v.v.) được nhân dân tin theo, xây dựng thành công dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh. Chẳng lẽ chúng ta không chịu tiếp thu bài học “tự diễn biến” vô cùng sáng suốt của Marx, Engel? Đã quá muộn để chúng ta quyết định chia tay với Marx, Engels cộng sản, và mạnh dạn đi theo Marx, Engels xã hội dân chủ!

Giáo sư Dương Phú Hiệp, nguyên Tổng thư ký Hội đồng lý luận Trung ương góp ý văn kiện Đại Hội 11: “Nên bỏ cụm từ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta vì nó đã khốn khổ”. Đúng vậy, không chỉ nhân dân ta vì nó đã khốn khổ mà hằng ngàn đảng viên cộng sản chết oan vì nó trong cải cách ruộng đất; bị tù tội vì nó trong những vụ chống xét lại; những trí thức, văn nghệ sĩ ưu tú nhất vì nó mà bị hành hạ trong vụ Nhân văn Giai phẩm. Hằng triệu người vì nó, bỏ xứ di cư vào Nam; rồi hằng triệu người khác vì nó bỏ nước chạy ra nước ngoài. Nhân dân ta khát vọng Độc lập Tự do, chứ không hề khát vọng chủ nghĩa xã hội. Những lời kêu gọi của Hồ Chí Minh khi chuẩn bị khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và Đồng khởi ở miền Nam năm 1960 đều không có từ xã hội chủ nghĩa. Và điều mong ước cuối cùng của Cụ Hồ cũng là “Một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Nhiều nhà bình luận về sự kiện Trung Quốc gây hấn với ta mới đây, như Ernest Bower, giám đốc chương trình Đông Nam Á (của CSIS) trả lời phóng viên Hoài Hương của VOA đã cho rằng: “Nhưng dù sao họ cũng là hai nước cộng sản anh em” (!). Ông Richard Pearson, nhà nghiên cứu về Trung Quốc, Việt Nam và Biển Đông, nhận định: “Sự cởi mở của chính quyền Obama đối với Việt Nam đã đạt tới ranh giới buộc phải chấp nhận trong xã hội dân sự và những giá trị Mỹ. Giờ đây đã đến lúc Hà Nội phải thực hiện hành động tiếp theo.” Mặc dù Philippines không bị Trung Quốc đe dọa láo xược như đối với Việt Nam, nhưng ngoại trưởng Clinton nhiều lần lên tiếng: Chúng tôi muốn nhấn mạnh cam kết của chúng tôi trong việc bảo vệ Philippines”. Ông Greg Autry, đồng tác giả quyển Thần chết Trung Quốc, cho rằng Việt Nam cần thoát khỏi sự ràng buộc làm đồng minh thể chế với Trung Quốc, để có được một vị thế mới trong lòng nhân loại: “Nếu Việt Nam có thể thay đổi chế độ chính trị một cách đáng tin cậy thì Việt Nam gần hơn với Hoa Kỳ và Châu Âu, và có thể lúc đó Hà Nội lại đi bước trước Bắc Kinh trong việc trở thành một nhân vât quan trọng trên thế giới”.

Trước họa xâm lăng nhãn tiền, lịch sử đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam sáng suốt đứng hẳn với dân tộc, không vấn vương ý thức hệ lỗi thời, chọn những giải pháp cứu nước tốt nhất. Xin chỉ nêu ra dưới đây những điều thật cấp thiết.

MỘT CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ ĐÚNG NHƯ LỜI HỨA CỦA CỤ HỒ

Bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 không chỉ là lời hứa mà đúng ra phải gọi là Lời thề của Cụ Hồ trước quốc dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam nhất tề hưởng ứng và trung thành với Lời thề ấy suốt hai cuộc kháng chiến thần thánh. Hai câu mở đầu trích từ Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp đã chứng minh dứt khoát rằng Cụ Hồ đã chọn cho nhân dân mình nền Tự do Dân chủ từ tư tưởng của các bậc khai sáng vĩ đại của Pháp và phương Tây thế kỷ 18. Trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Marx, Lenin không có khái niệm “dân chủ xã hội chủ nghĩa” và “pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Phải nói đó là những ngụy ngôn, nhằm hồi sinh cho một khái niệm đã chết. Cái mà Lenin gọi là “dân chủ gấp triệu lần hơn” chính là nền chuyên chính vô sản, bản chất “dân chủ triệu lần” của nó được biện hộ rằng nó đại diện cho một xã hội trải qua cải tạo giai cấp triệt để chỉ còn duy nhất một giai cấp công nhân.

Ngoài việc tự tay soạn bản Tuyên ngôn Độc lập đúng tầm thời đại, Hồ Chí Minh còn có nhiều danh ngôn về tự do dân chủ trong hằng trăm bài viết. Nếu nhìn vào hệ thống chính trị của chúng ta hiện nay và nhận xét một cách trung thực thì chẳng có gì giống với những điều Hồ Chí Minh đã nói, đã hứa hẹn, đã thề bồi! Có người cho rằng lý tưởng cao đẹp từ cách mạng Tháng Tám đã bị phản bội! Tôi không hoàn toàn đồng ý với nhận xét đó. Hồ Chí Minh nhiều lần công khai trả lời rằng mình chỉ xem chủ nghĩa Marx, Lenin là một phương tiện để giành độc lập dân tộc, chứ không phải là mục đích. Ông đã có nhiều hành động chứng tỏ điều ấy, cho nên đã bị Stalin trù dập và bị Trần Phú, Hà Huy Tập… công kích gay gắt. Ông không thể đưa con thuyền cách mạng Viêt Nam cặp bến dân chủ, điều đó phải xét tới trách nhiệm của các thế lực hiếu chiến Pháp, Mỹ, buộc ông phải tìm liên minh với phe xã hội chủ nghĩa.

Trước họa xâm lăng hiện nay, lão anh hùng Nguyễn Trọng Vĩnh cho rằng cần thực hiện dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội để tạo ra sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Phải thẳng thắn thưa rằng, kinh nghiệm lịch sử cho thấy, với thể chế toàn trị xã hội chủ nghĩa thì không thể nào làm được điều mong ước dân chủ tốt đẹp ấy!

Vậy nền dân chủ mà nhân loại đòi hỏi là gì? Dân chủ là thể chế hóa quyền tự do của nhân dân. Điều 1 Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp viết: “Mọi người sinh ra sống tự do và bình đẳng về các quyền…”; Điều 4: “Tự do bao gồm quyền có thể làm mọi điều không gây hại cho người khác…”. Để giới hạn những điều không gây hại cho người khác, J. J. Rousseau cho rằng cần có “Khế ước xã hội”, hạn chế cái tự do thiên nhiên, quy định những điều được làm trong quyền tự do dân sự. Trong trạng thái dân sự, con người có quyền tự do tinh thần, và “tuân theo quy tắc do mình tự đặt ra”. Thể chế dân chủ, nhà nước pháp quyền là định hình của Tự do.

Để có một nhà nước dân chủ, thực sự của dân, do dân, vì dân, phải thực hiện cuộc bầu cử có đủ các yếu tố:

ü Bình đẳng, tức là không phân biệt giai cấp, gái trai, chủng tộc;

ü Phổ thông tức là mọi người dân đã trưởng thành đều có quyền ứng cử, bầu cử;

ü Tự do, tức là tôn trọng mọi quan điểm chính trị khác nhau;

ü Cạnh tranh, tức là công khai cương lĩnh tranh cử để người dân chọn lựa; và theo định kỳ mấy năm bầu lại một lần.

Nhà nước dân chủ là nhà nước pháp quyền, chứ không phải “pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, một sản phẩm của TBT Đỗ Mười ra đời 29 tháng 11 năm 1991 nhằm duy trì ý thức hệ với nội dung “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VỚI TAM QUYỀN PHÂN LẬP

Sau 18 năm thực hiện “tam quyền được phân công và phối hợp” của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiến sĩ Hồ Bá Thâm dù hết sức e dè vẫn phải nói: “Kéo dài ngày càng trầm trọng tệ tham nhũng, cửa quyền, quan liêu, lãng phí hiện nay trong hệ thống chính trị và trong xã hội ta, càng thấy thiếu sót lớn trong một cơ chế thiếu giám sát và kiềm chế quyền lực tệ hại như thế nào. Đó là chỗ hổng và yếu kém nhất trong cơ chế tam quyền của nhà nước, phải được khắc phục sớm”.

Tuy nhiên văn kiện Đại hội 11 vẫn viết na ná như cũ, chỉ thêm “cơ chế kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện ba quyền đó”. Vấn đề không phải là “kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện” mà là ba quyền phân lập, để quyền lực này kiềm chế, giám sát quyền lực kia, chống sự lạm quyền. Chính phủ phải bị kiểm soát bởi luật pháp thì mới không là cấp trên, là cha mẹ của dân, mới thành tâm làm đầy tớ của dân. Một thể chế không hạn chế được quyền lực thì bao nhiên cơ quan thanh tra, kiểm tra cũng vô hiệu. Chỉ một tập đoàn kinh tế như Vinashin chứ không phải cơ quan quyền lực nhà nước, thế mà qua 11 cuộc thanh tra cấp nhà nước vẫn không thể phát hiện được là nó dã thâm thủng ngót trăm ngàn tỉ đồng, và sắp sụp đổ!

Cả ba quyền của Nhà nước Việt Nam đều yếu kém, nhưng có lẽ tệ nhất là quyền tư pháp, nó không dám nói một lời nào trước những bộ luật vi hiến rất nghiêm trọng, tước mất mọi quyền tự do của nhân dân, nó sợ quan chức ở tất cả các cấp, nó luôn chờ ý kiến chỉ đạo của cấp ủy Đảng trước khi mở phiên tòa!

2500 năm trước nhà hiền triết Platon đã có lời răn: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền lực của một ai đó. Còn nơi nào pháp luật đứng trên nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ cho pháp luật thì ở đó có sự cứu thoát cho nhà nước”.

Chấp nhận tam quyền phân lập không chỉ nhân dân được lợi mà chính là sự cứu rỗi cho Đảng Cộng sản Việt Nam có cơ hội thoát khỏi vũng bùn tham nhũng ô nhục đang gây đau nhức lương tâm của hàng triệu đảng viên chân chính và công nhân, nông dân nghèo khổ.

TỰ DO, NHÂN QUYỀN ĐÚNG NỘI DUNG CỦA CÁC CÔNG ƯỚC LIÊN HIỆP QUỐC

Hiến pháp 1992 ghi nhận đủ mọi quyền tự do, nhân quyền nhưng các bộ luật vô hiệu hóa tất cả! Có hai lý lẽ bào chữa cho sự đánh tráo khái niệm này là: Vì đảm bảo an ninh; vì truyền thống văn hóa.

Chỉ cần nhắc lại ý kiến Marx, Engels 160 năm trước trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản cũng đủ thấy lập luận trên là sai trái, thậm chí là phản động: “Những thành quả hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất hẹp hòi phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa” (sách đã dẫn, trang 50). Hội nghị nhân quyền ở Vienna 1993 nhắc nhở: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Cộng đồng quốc tế phải xử lý các quyền con người theo phạm vi toàn cầu một cách công bằng và bình đẳng và được coi trọng như nhau”, và “Trong khi công cuộc phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc hưởng thụ mọi quyền con người, không viện dẫn sự kém phát triển để biện minh cho việc cắt xén các quyền con người đã được quốc tế thừa nhận”. Chính vì không chịu làm như thế cho nên các tổ chức quốc tế và Bộ Ngoại giao Mỹ luôn luôn xếp Việt Nam thuộc những quốc gia tồi tệ nhất trong việc thực hiện các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền.

Công ước quốc về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện từ năm 1982, nay đã qua 29 năm lẽ nào cứ khất lần mãi?

QUYỀN TỰ DO CHÍNH TRỊ

Lời nói đầu ICCPR viết:

“Chỉ có thể đạt được lý tưởng của con người tự do được tận hưởng tự do về dân sự và chính trị, không bị sợ hãi và thiếu thốn nếu tạo được những điều kiện để mỗi người có thể hưởng các quyền dân sự và chính trị cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của mình”.

Và Điều 2: “Mỗi quốc gia thành viên của Công ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của mình, các quyền đã được công nhận trong Công ước này, không phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, CHÍNH KIẾN (tôi nhấn mạnh) hoặc mọi quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc các điều kiện khác”.

Hàng chục năm qua, những người nói lên chính kiến khác của mình, tức là khác với chủ nghĩa Marx-Lenin hoặc khác với đường lối chính trị của Đảng đã bị bắt, bị tù, nhưng không gọi là tù chính trị mà là tội phạm luật hình!

Gần một thế kỷ trước lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Đức Rosa Luxemburg đã nói “Tự do không phải dành riêng cho đảng viên của một Đảng, dù Đảng ấy đông đảo đến đâu đi nữa. Tự do luôn luôn phải là tự do của những người bất đồng chính kiến”.

QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN

Điều 19 của ICCPR:

“1-Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.

“2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bảng viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.

“3- Việc thực hiện những điều quy định tại Khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn tới một số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy định là cần thiết để:

a/ Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;

b/ Bảo vệ an ninh quốc gia, hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng”( Điều 19 ).

Quyền tự do ngôn luận đã được các Hiến pháp nước ta từ 1945 đến 1992 ghi nhận, nhưng chỉ được thực hiện những năm 1945-1955. Các Luật báo chí sau này chỉ công nhận quyền tự do ngôn luận của tập thể, cắt bỏ hầu hết quyền tự do ngôn luận của mỗi công dân. Khi bị chỉ trích thì vin vào việc phải “bảo vệ an ninh quốc gia” chưa thể thực hiện cho mỗi người. Chẳng những thế, Luật hình sự Việt Nam đã chế biến nội dung điều 19 của ICCPR thành nội dung Điều 88, với mức án phạt nhiều năm tù!

Trong khi đó, Tổng thống Obama, sau khi đắc cử đã tuyên bố với báo chí rằng: “Một chính phủ lấn lướt báo chí, một chính quyền không bị đối mặt với hệ thống truyền thông cương trực và mạnh mẽ, đó không phải là sự lựa chọn của nước Mỹ!”. Ông Obama liên tục bị hệ thống truyền thông Mỹ công kích, thế nhưng cho đến nay chưa có ứng cử viên nào sáng giá hơn ông trong cuộc bầu cử Tổng thống vào năm 2012.

Chúng ta đều biết rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì đòi quyền tự do báo chí cho nhân dân Việt Nam từ năm 1919 khi đưa Bản yêu sách tới Hội nghị Versailles. Từ đó về sau Cụ liên tục nhắc lại đòi hỏi này: “Mãi tới bây giờ vẫn chưa có một người Việt Nam nào được cho phép xuất bản một tờ báo. Tôi muốn nói về những tờ báo về chính trị, kinh tế, hay văn học của người dân lập ra như chúng ta từng thấy ở châu Âu, hoặc các nước châu Á khác, chứ không phải tờ báo do chính quyền thành lập” (1921-1926).

Sau Cách mạng tháng Tám, trong tình hình chính trị phức tạp, ngày 21 tháng 3 năm 1946, Phó Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng đã ký sắc lệnh “Cho phép báo chí xuất bản không phải xin phép mà chỉ cần thông báo cho nhà chức trách biết.” Cũng cần nhắc lại rằng năm 1938, báo Dân chúng của Đảng Cộng sản (ở số 43 Đường Hamelin, nay là Lê Thị Hồng Gấm Q1, TP HCM) xuất bản không xin phép và được Chính quyền thực dân Pháp chấp nhận, sự kiện này mở đầu cho quyền tự do báo chí ở nước Việt Nam thuộc địa. Chẳng lẽ sau hơn 60 năm cách mạng, quyền tự do ngôn luân, tự do báo chí, bị lùi lại so với chế độ thực dân Pháp?! Chẳng lẽ thực dân Pháp không sợ ngôn luận của Đảng và nhân dân Việt Nam công kích chúng, mà ngày nay Đảng lại sợ ngôn luận tự do của chính nhân dân mình?

QUYỀN TỰ DO HỘI HỌP, LẬP HỘI

Hiện nay, Việt Nam có hơn 300 hội đoàn hoạt động trong phạm vi cả nước và khoảng 2000 hội đoàn hoạt động trong nội bộ các tỉnh thành. Trung bình mỗi người có chân trong hơn 2 hộị đoàn. Các đoàn thể lớn như Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, ở cấp Trung ương đều do Ủy viên Trung ương Đảng làm chủ tịch. Ở các cấp dưới thì do Ủy viên Thường vụ Đảng làm chủ tịch. Các đoàn thể này và cả các đoàn thể nhỏ hơn như Hội Cựu chiến binh, Hội Nhà báo, Hội Nhà văn, Hội Khoa học Kỹ thuật… đều ăn lương Nhà nước. Các đoàn thể là cánh tay nối dài của Đảng. Các hội đoàn kể trên, dù hội viên không tín nhiệm cũng cứ phải vào, không ai được phép đứng ra lập một hộị đoàn thứ hai, dù xin tự nguyện hoạt động không ăn lương Nhà nước.

Các hội đoàn đều có trường huấn luyện cán bộ. Công đoàn có trường đại học và nhiều trường cấp tỉnh thành. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của tất cả các đoàn thể đều rất kém, thường bị chỉ trích là “hành chính hóa” các hoạt động. Ví dụ như Công đoàn, mấy năm nay đã có hằng ngàn cuộc đình công tự phát, tức là công nhân đình công không có chỉ đạo của Công đoàn (như vậy bị coi là không hợp pháp!). Có những cuộc đình công từ 5.000 đến 10.000 công nhân tham gia. Năm 2010 có 424 vụ đình công, quý 1 năm 2011 có 220 vụ đình công. Trước tính trạng đó, những người soạn thảo sửa đổi Bộ Luật Lao động, đã đề nghị cho phép thành lập “đại diện tập thể lao động ở những doanh nghiệp chưa thành lập Công đoàn”. Trong cuộc họp do Tổng Liên đoàn Lao động tổ chức để góp ý Dự thảo này, các cán bộ công đoàn đã phê phán rất mạnh mẽ đề nghị nói trên với hai lý do:

1- Sự hiện diện của một tổ chức không phải là công đoàn mà làm thay chức năng của công đoàn, tạo tiền lệ hết sức nguy hiểm, nếu không nói là cổ xúy và thừa nhận “đa nguyên công đoàn”.

2- Nhiều đại biểu cho rằng đây là một bước lùi: Bởi phần lớn các cuộc đình công đã qua là đình công về quyền chứ không phải đình công vì lợi ích (!) Do đó nếu không điều chỉnh kịp thời thì sẽ còn tiếp tục có những cuộc đình công không tuân theo quy định của pháp luật.

Ở các quốc gia dân chủ người ta sẽ khó hiểu câu chuyện kể trên. Đã bao nhiêu năm tổ chức Công đoàn không làm được trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cho công nhân, nay chỉ vì để chữa cháy mà người ta đề ra biện pháp tạm thời cho công nhân bấu víu khi chưa lập được công đoàn thì lại quy chụp một tội tày đình, có thể đi tù! Người công nhân đi làm chỉ mong có lương, có phụ cấp, thậm chí vài nghìn đồng cho bữa ăn giữa ca, ai cũng thấy vậy, họ đâu có đòi làm vương làm tướng gì để có thể chịu rủi ro mất việc?

Quyền tự do hội họp, và lập hội như trên thì rõ ràng là điều Cụ Hồ đòi từ năm 1919 đến nay người Việt Nam vẫn chưa có.

CẦN CÓ MỘT XÃ HỘI CÔNG DÂN!

Thực hiện những điều kể trên là tạo điều kiện để tái lập xã hội công dân (cũng gọi là xã hội dân sự) đã bị mất đi từ khi thiết lập thể chế xã hôi chủ nghĩa toàn trị. Người ta coi nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, xã hội công dân là ba chân kiềng của chế độ dân chủ. Vì sao?

Khái niệm xã hội công dân (cũng gọi là xã hội dân sự) có từ thời thượng cổ, nó đáp ứng sự cần thiết của người dân tự nguyện liên kết với nhau ngoài chính trị, ngoài nhà nước, bảo vệ những lợi ích, những giá trị sống, vừa xây dựng vừa chống lại xu hướng độc tài, quan liêu của nhà nước.

Nhà nước luôn luôn có xu hướng lạm quyền. Ở các nước dân chủ, vẫn còn những tiêu cực, các Đảng ra tranh cử đôi khi đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích của dân. Nhà nước không xử lý thỏa đáng các vấn đề như thuế má, phúc lợi xã hội, can thiệp bằng chiến tranh với bên ngoài… Trong chế độ dân chủ, mỗi người dân có lợi ích và xu hướng khác nhau, họ tìm đến nhau thành những nhóm, những hội, rồi những nhóm những hội này tìm sự đồng thuận với những nhóm những hội khác. Xã hội công dân đấu tranh ôn hòa bảo vệ tự do của con người trong xã hội hiện đại. Nhà nước pháp quyền điều tiết sự khác nhau giữa các nhóm, các hội bằng pháp luật, khi cần thì điều chỉnh pháp luật trên cơ sở của một chế độ mọi quyền lực thuộc vế nhân dân.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô viết thì trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế đến văn hóa, xã hội đều bị chính trị hóa. Mọi quyền sở hữu, về tư liệu sản xuất, cả sở hữu sức lao dộng của mình cũng không còn, tất cả đều là của tập thể. Xã hội công dân bị buộc phải nhường chỗ cho xã hội toàn trị. Cuộc dân chủ hóa ở Liên xô và Đông Âu là quá trình hình thành và lớn lên của xã hội công dân, đưa tới sức mạnh chuyển quyền lực chính trị từ nhà nước chuyên chính sang nhân dân.

Việt Nam ta đến nay vẫn chưa có một xã hội công dân đúng nghĩa.

Cuộc Đổi mới chính trị quá chậm so với đổi mới kinh tế, sau 25 năm vẫn chưa có một nhà nước thực sự dân chủ, các quyền tự do dân sự và chính trị không được thực hiện, do đó chưa hình thành một xã hôi công dân. Tình hình đó làm tích tụ dông bão rất nguy hiểm đối với Đảng cầm quyền và có thể làm tiêu hao sinh lực của dân tộc, trước giặc ngoại xâm.

XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA HIỆN ĐẠI

Tổ tiên chúng ta đã để lại một đất nước nghìn năm văn hiến mà cốt lõi là tư tưởng nhân văn cao cả “Thương người như thể thương thân”. Hơn một trăm năm qua, chúng ta cũng có nhiều thành công trong việc Việt Nam hóa những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đặc biệt là từ văn hóa Pháp và phương Tây. Vào thời xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta du nhập tư tưởng “người với người là bạn”, “mình vì mọi người, mọi người vì mình” rất đẹp, nhưng không làm được bao nhiêu, đến nay thì không còn gì.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn hóa Việt Nam đang lâm vào bất ổn, nổi bật là đạo đức xã hội xuống cấp, dối trá, lừa đảo, bạo lực đang thay cho trung thực, minh bạch, nhân hậu.

Chúng tôi cho rằng sự đảo điên nhân tình bắt nguồn từ sự đảo điên của thể chế: Nói quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân không có quyền gì cả; nói cán bộ đảng viên là đầy tớ của nhân dân, nhưng thực tế họ như là cha mẹ nhân dân; nói công nhân là giai cấp lãnh đạo, nhưng thực tế họ làm tăng ca, tăng kíp vẫn lương không đủ ăn, đi biểu tình thì bị coi là bất hợp pháp… Cuộc sống đẩy con người phải phản ứng, nhưng không được luật pháp bảo vệ, hướng dẫn sự phản ứng bằng hành động ôn hòa, khiến nảy sinh những manh động mất lý trí, rồi sự lặp đi lặp lại tình trạng ấy của số đông lâu ngày trở thành một nếp văn hóa tiêu cực.

Chế độ xã hội chủ nghĩa áp đặt quan điểm chính trị lên sinh hoạt văn hóa, đặt ý thức hệ lên trên đạo đức truyền thống, lấy chủ nghĩa Marx, Lenin làm chân lý độc tôn, đề cao tuyệt đối chủ nghĩa tập thể, đồng nhất chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa vị kỷ, buộc văn học, nghệ thuật phải minh họa đường lối chính trị, phục vụ chính trị. Đó là những nguyên nhân làm cho văn hóa thui chột và méo mó.

Phải để cho văn hóa phát triển tự nhiên trong cuộc sống tự do dân chủ, lao động sáng tạo, giữ lại cái đẹp của dân mình và du nhập cái tinh hoa của người, nước ngoài, sàng lọc và thải loại những gì không phù hợp với thể trạng tinh thần của người Việt Nam trong cuộc sống luôn luôn đổi mới.

CẢI CÁCH GIÁO DỤC

Giáo dục Việt Nam cũng đang bị khủng hoảng hàng nửa thế kỷ vẫn không tìm thấy lối ra. Nhà sử học Dương Trung Quốc nói: “Thế hệ chúng ta mất gốc hoàn toàn”. Câu nói ấy cho ta hiểu là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã đem tới sự mất gốc đó. Cụ giáo sư đáng kính Hoàng Tụy đã bỏ ra bao tâm trí để “Giáo dục, xin cho tôi nói thẳng”. Cụ đã nói thẳng và nói với kiến thức sâu sắc của một vị giáo sư, với kinh nghiệm cả đời. Về nguyên nhân từ thể chế thì tuy Cụ đã có cách nói khéo léo, mềm mỏng, vậy mà cũng bị thổi còi. Tôi nghĩ, giáo dục cũng giống như văn hóa, đã bị kiềm hãm bởi ý thức hệ, không thoát ra khỏi ràng buộc của chính trị của triết lý giáo dục cộng sản. Điều này thể hiện cả trong biên soạn sách giáo khoa, trong phương pháp giảng dạy, trong cung cách đào tạo và sử dụng người thầy…

Ngày nay người ta đòi hỏi giáo dục trước hết là đào tạo ra con người tự do, con người dám khác với những người khác dù đó là vĩ nhân, con người luôn luôn đầy ắp ý kiến phản biện. Triết lý giáo dục đó hoàn toàn trái với triết lý tôn thờ chân lý độc tôn, chân lý vĩnh cửu, không chấp nhận diễn biến hòa bình, không cho phép tự diễn biến; Lãnh tụ vĩ đại, Đảng quang vinh đã bao cấp đủ mọi chân lý lớn nhất, hãy cứ thế mà làm theo. Triết lý giáo dục chính thống như thế phải đẻ ra sách giáo khoa dành 30-40% cho các nội dung phục vụ chính trị; dành cho vô số sách tham khảo bài văn mẫu, bài giải toán mẫu. Phương pháp dạy cứ là thầy đọc, trò chép. Luận văn tốt nghiệp, luận án tiến sĩ là những sao chép, xào lại.

Giáo sư Pierre Darriulat đã tóm tắt bài viết của đại tướng Võ Nguyên Giáp và cuốn sách của giáo sư Hoàng Tụy thành 4 câu súc tích: Chúng ta phải dừng lại việc nói một đằng làm một nẻo; chúng ta phải khôi phục phẩm giá cho giới trí thức và học giả; chúng ta phải có kế hoạch rõ ràng cho nghiên cứu và giáo dục cho tương lai; chúng ta phải chấm dứt nạn chảy máu chất xám. Tôi xin bổ sung một ý kiến của ông Nguyễn Trần Bạt: “Chúng ta phải khôi phục lại tính chất phi chính trị của nhà trường để ở đấy học sinh không còn phải nói dối”.

XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Chúng ta bắt đầu đổi mới từ kinh tế và đã đạt được thành tựu trong những năm đầu khá ngoạn mục, khiến nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài hy vọng sự xuất hiện con rồng con hổ Việt Nam trong tương lai không xa. Tiếc thay, những thế lực bảo thủ (trong đó có cả giả vờ bảo thủ, kỳ thực là tìm cách duy trì môi trường để tham nhũng!) đề cao cái tính từ xã hội chủ nghĩa, làm biến dạng nền kinh tế thị trường, mỗi lần gây ra đổ vỡ thì bào chữa bằng lập luận “chúng ta sáng tạo con đường kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa chưa từng có tiền lệ!”. Dự thảo văn kiện Đại hội 11 là một bước lùi so với Đại hội 10, khi người ta đưa thêm “Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”. Mãi đến trước ngày bế mạc mới có quyết định bỏ điều sai trái này, nhưng vẫn giữ “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” dù cho nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu của đất nước khuyên nên bỏ.

Nếu nói trên quan điểm về kinh tế thì có thể lý giải sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa là: Nền kinh tế tư nhân đã đánh bại nền kinh tế nhà nước! Nền kinh tế sở hữu tư nhân đã đánh bại nền kinh tế công hữu. Nhìn ra thế giới sẽ thấy, nước nào đi vào con đường xã hội chủ nghĩa thì nghèo đói; nước nào đi vào kinh tế thị trường thì dân giàu, nước mạnh. Nhìn lại nước ta, kinh tế nhà nước hủy hoại không biết bao nhiêu vốn liếng. của nhân dân ky cóp. Cái đuôi xã hội chủ nghĩa đã làm biến dạng kinh tế thị trường nước ta gây nhiều hậu quả: Kinh tế Việt Nam bắt đầu lâm vào khủng hoảng trước khủng hoảng của thế giới một năm, từ 2008 lạm phát đã tăng lên 20%, chỉ số ICOR từ 5 lên 6, 9, nhập siêu tăng, và có nhiều biểu hiện lọt vào vòng tay Trung Quốc.

Kinh tế Việt Nam năm 2011, được nhiều cơ quan thẩm định quốc tế gọi là “đã rơi tới đáy”. Nguy hiểm nhất là lệ thuộc Trung Quốc. Trong 4 tháng đầu 2011 nhập siêu từ Trung Quốc 4 tỉ USD, 5% hàng tiêu dùng, 55% nguyên, phụ liệu, 25% thiết bị loại kỹ thuật lạc hậu rẻ tiền. Có 41 dự án trọng điểm quốc gia do 30 công ty Trung Quốc thắng thầu. Có đến 90% các dự án trọng điểm về điện, dầu khí, viễn thông, cơ khí, hóa chất và 100% dự án khai khoáng đều do các công ty Trung Quốc trúng thầu! Ôi gỡ sao cho khỏi tình trạng lệ thuộc đây! Có người cho rằng nếu chống lại sự hợp tác kinh tế với Trung Quốc coi chừng sẽ gây ra thiệt hại về phía Việt Nam. Không! Chúng ta không bao giờ chống sự hợp tác kinh tế bình đẳng với Trung Quốc. Chúng chỉ nên xem lại những sơ hở đang làm cho nước ta nhận thiết bị lỗi thời, mua rác rưởi của họ thải loại, tạo điều kiện để họ đưa lao động giản đơn vào sinh cơ lập nghiệp khắp nơi, lấy vợ đẻ con, lẫn trong đó chắc chắn có những âm binh, gián điệp vô cùng nguy hiểm!

Hãy vì lợi ích của nhân dân và Tổ Quốc cắt bỏ cái đuôi”xã hội chủ nghĩa” cho cơ chế thị trường lành mạnh. Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng, không coi kinh tế nhà nước là chủ đạo, không ưu đãi, giải cứu những công ty nhà nước thua lỗ.

Phải đặt thời hạn để giảm dần và chấm dứt mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng là: khai thác lao động giá rẻ, giá trị thấp; khai thác tài nguyên xuất thô; đầu tư thiết bị lỗi thời dùng nhiều lao động cơ bắp, tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên liệu; sử dụng lãng phí đất đai; gây ô nhiễm môi trường.

Mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chỉ có thể thực hiện được khi có một thể chế dân chủ và thoát khỏ vòng tay o ép của Trung Quốc.

AI LÀ BẠN CHÍ THIẾT CỦA VIỆT NAM?

Chúng ta đã có nhiều thành công khi tuyên bố Việt Nam là bạn của tất cả các nước. Một thành công quan trọng nữa là trở thành đối tác chiến lược với Mỹ, kẻ thù cũ. Tuy nhiên cũng có bạn thân và bạn sơ. Hơn 20 năm nay nêu hỏi cả năm châu xem ho nghĩ rằng ai là bạn thiết cốt của Việt Nam thì sẽ dễ dàng nhận được câu trả lời: Trung Quốc!

Người Pháp có câu, hãy nói bạn thân của anh là ai, tôi sẽ nói anh là người thế nào! Chà, đến đây chúng ta sẽ thấy cái khó cho mình trên bàn cờ khu vực và thế giới hôm nay. Một lần nữa lại muốn so sánh ta với Nhật Bản và cả nước Đức nữa. Ngay sau khi bại trận hai nước này kịp hiểu nguyên nhân bại trận của nước họ, và nhìn nhận đúng bản chất kẻ thù của mình và lập tức đổi thù ra bạn, mà còn là bạn thiết cốt nữa! Hơn nữa thế kỷ đã qua, thực tế đã xác nhận hai nước Đức, Nhật hoàn toàn đúng trong việc chon bạn, nhờ đó mà trở thành giàu mạnh nhất nhì thế giới.

Rất tiếc chúng ta không hiểu kẻ thù cũ của mình cũng không biết kẻ thù mới của mình. Mỹ sai lầm vì cho rằng đánh ta là đánh vào tiền đồn cộng sản, không ngờ rằng khi đó người Việt Nam kể cả đảng viên không hề nghĩ mình chiến đấu vì chủ nghĩa cộng sản mà chỉ vì Tổ Quốc bị xâm lược. Sau khi bị thua, Mỹ mau chóng hiểu ra vấn đề và muốn làm lành với ta. Nhưng chúng ta lại không hiểu, nên cứ tiếp tục thù dai. Ta không hiểu Mỹ, còn có nguyên nhân là vì chưa dám cởi bỏ ý thức hệ, sợ bị mất quyền lãnh đạo. Trong khi đó, cũng vì ý thức hệ, chúng ta vấp một lầm lẫn nguy hiểm là đổi kẻ thù bành trướng tàn bạo thành bạn chí thiết, còn hơn cả chí thiết, vì là đổng chí “16 chữ vàng” và “bốn tốt”.

Cái thế của đất nước đòi hỏi Đảng Cộng sản thực hiện lời hứa của mình “không có lợi ích nào ngoài lợi ích của nhân dân và Tổ quốc”. Vì lợi ích nhân dân và Tổ quốc, Đảng cần nhanh chóng và triệt để đổi mới, đổi mới toàn diện, thực hiện những yêu cầu đã kể ở trên, để có thể trở thành bạn thân thiết của thế giới dân chủ và có thể trở thành đồng minh chiến lược với Mỹ. Có thể sẽ có ý kiến cho rằng: Bất cứ nước nào cũng lấy lợi ích của họ làm cơ sở khi cam kết với đồng minh, và khi có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho họ thì họ vẫn có thể vứt bỏ đồng minh để tự cứu. Điều đó không sai, mỗi quốc gia phải tự vươn lên hùng mạnh, bằng đường lối khôn ngoan và dũng cảm của mình, không bao giờ được ỷ lại bên ngoài. Không ai muốn làm bạn với kẻ yếu, lại không có kế sách để mạnh lên và không có gì để trao qua đổi lại. Có thể lại có ý kiến: Trung Quốc có nhiều thế mạnh để mặc cả, thương lượng với Mỹ hơn ta? Không đúng! Vì trong cuộc đấu tranh này chúng ta có chính nghĩa, chúng ta được luật pháp quốc tế bảo trợ, lợi ích của chúng ta phù hợp với lợi ích của các quốc gia trong khu vực và cả thế giới. Nước ta có vị trí cực kỳ quan trọng trong giao thương hàng hải, đặc biệt còn có vịnh Cam Ranh ở vị thế chiến lược để làm chủ cả Biển Đông. Nếu dân chủ hóa thành công thì cán cân thế và lực hoàn toàn nghiêng về chúng ta trong cuộc đấu tranh ngoại giao, mở rộng bè bạn, giao kết đồng minh.

Tổ quốc đang kêu gọi: Tất cả để cứu nước! Tất cả để chiến thắng!

Viết trong những ngày sôi sục cả tim gan.

T. V. C.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama

Không cần phải là người Mỹ để quan tâm đến các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tôi đã là một trong hàng tỷ người trên thế giới theo dõi cuộc tranh cử năm 2008. Tôi lưỡng lự giữa Obama mà tôi tự nhiên thấy có cảm tình và McCaine mà tôi quý trọng từ lâu về nhân cách. Chọn lựa của tôi lệch về Obama sau khi bà Sarah Pallin được chọn làm ứng cử viên phó tổng thống cho McCain và tôi đã là một trong hàng tỷ người hân hoan theo dõi lễ nhậm chức của Obama trên truyền hình. Trong lịch sử nước Mỹ có lẽ ngoại trừ George Washington chưa có vị tổng thống Mỹ nào được hoan nghênh khi đắc cử bằng Obama. Nhưng rồi Obama trở thành một trong những tổng thống Mỹ ít được tín nhiệm nhất sau một năm cầm quyền.

Ronald Reagan trước đây cũng đã từng xuống thấp trong tỷ lệ tín nhiệm sau một năm tại chức như Obama, nhưng sau đó đã lên dốc được và trở thành một trong những tổng thống Mỹ được ái mộ nhất vì ông quả quyết theo đuổi một chính sách và chính sách đó -quyết tâm đánh gục lạm phát và chủ nghĩa cộng sản- dần dần chứng tỏ là đúng và đã thành công. Obama thì khác, ông khó có thể đảo ngược được tình thế bởi vì không thể chờ đợi kết quả của một hò hẹn nào với tương lai cả, ông là một con người thực tiễn.

Thất vọng đầu tiên của tôi đối với Obama đến ngay trong khi nghe ông đọc bài diễn văn nhậm chức. Obama nói đại khái: “Với những chế độ độc tài bám lấy quyền lực bằng mọi giá và bịt miệng đối lập chúng tôi nói quí vị đi sai chiều lịch sử, nhưng nếu quí vị chìa bàn tay ra chúng tôi cũng sẽ nắm lấy“. Diễn nghĩa: quí vị cứ tiếp tục vi phạm nhân quyền cũng không sao miễn là đừng thù địch với chúng tôi. Câu nói ngắn ngủi này diễn tả một cách bóng bẩy chủ thuyết đối ngoại thực tiễn của Obama. Ông đã trình bày một cách tỉ mỉ hơn trong bài diễn văn tại Cairo ngày 4-6-2009. Hôm đó đúng là ngày kỷ niệm 20 năm cuộc thảm sát Thiên An Môn nhưng Obama đã không có một lời nào cho biến cố này, hơn thế nữa trong phần nói về dân chủ Obama đã làm một triệt thoái lớn trong khái niệm dân chủ: ông định nghĩa dân chủ một cách mơ hồ là chính quyền phải phản ánh nguyện vọng của người dân. Nhưng đây chỉ là định nghĩa của dân chủ sơ đẳng nhất, không hề làm phiền các chế độ độc tài vì chúng đều tự xưng là thể hiện trung thành ý chí của nhân dân. Đây là dân chủ ở mức độ zero. Hình như nghĩ rằng nói như thế vẫn chưa đủ để làm vừa lòng các chế độ độc tài, Obama còn nói thêm rằng không một dân tộc nào có quyền quyết định chế độ nào là phù hợp nhất cho một dân tộc khác. So much for democracy. Quý vị nào muốn có thể đọc bài nhận định của tôi về ông Obama sau bài diễn văn này.

Chủ nghĩa thực tiễn của Obama có thể tóm tắt như sau: thôi nhấn mạnh về dân chủ và nhân quyền trong quan hệ đối ngoại, thoả hiệp thay vì đương đầu với các chế độ hung bạo, tương đối hoá các giá trị và các văn hoá, tránh can thiệp khi quyền lợi của Hoa Kỳ không trực tiếp bị đe doạ. Trong chuyến công du châu Á vừa qua, gồm cả Trung Quốc, Obama đã hầu như không đề cập đến vấn đề dân chủ và nhân quyền.

Obama mất dần uy tín bởi vì chính sách thực tiễn của ông đã thất bại. Iran đã bạo tay hơn trong việc đàn áp các cuộc biểu tình chống bầu cử gian lận và cũng mạnh dạn hơn trong việc chuẩn bị chế tạo bom nguyên tử, tương tự như Bắc Triều Tiên. Các chế độ độc tài tại Venezuella, Cuba, Sudan còn hung hăng hơn. Tình hình Trung Đông bế tắc vì cả Do Thái lẫn các lực lượng khủng bố Hồi Giáo Hizbollah và Hamas đều leo thang trong sự quá khích. Trung Quốc, Việt Nam và Miến Điện gia tăng đàn áp một cách thô bạo đối với những người dân chủ. Trung Quốc và Việt Nam còn công khai hành xử như bọn tin tặc, đánh phá các website của đối lập, bất chấp luật pháp quốc tế, thách thức cả thế giới. Chắc chắn họ không làm như vậy với một tổng thống Mỹ khác. Thái độ của Trung Quốc đặc biệt đáng lưu ý. Trung Quốc làm ngơ trước đòi hỏi tăng hối suất đồng Nhân Dân Tệ, phá đám và làm thất bại hội nghị quốc tế về khí hậu tại Copenhagen, có lúc một thành viên phái đoàn Trung Quốc còn la ó phản đối trong khi Obama đọc diễn văn. Các chế độ bạo ngược đều muốn gia tăng sự bạo ngược vì đó là bản chất của họ; với Obama họ tha hồ làm tới vì được bảo đảm là sẽ không gặp khó khăn. Trong chính sách đối ngoại chủ nghĩa thực tiễn là điều mà ngay cả nếu bất đắc dĩ phải áp dụng cũng không nên nói ra như Obama.

Obama cũng áp dụng chủ nghĩa thực tiễn trong chính sách đối nội. Dự luật cải tổ y tế của ông sau quá nhiều nhượng bộ và thoả hiệp đã mất dần ý nghĩa; nó hầu như không đả động đến vấn đề cốt lõi của nền y tế Mỹ là giá điều trị quá đắt để chỉ tập trung vào một vấn đề ít quan trọng hơn là mở rộng bảo đảm chăm sóc.

Trước sự suy sụp của cảm tình và uy tín dành cho ông, Obama đã bắt đầu thay đổi thái độ. Ông đã tỏ ra cứng rắn hơn đối với Iran và Trung Quốc, các quan chức Hoa Kỳ cũng đã lên tiếng tố giác các chính quyền độc tài. Obama có nhiều lợi thế hơn để bênh vực nhân quyền, so với Bush 43 chẳng hạn, vì con người truyền thông của ông và vì mọi người đều tin ông là một con người ôn hoà chừng mực, nhưng ông có một trở ngại lớn: chính ông. Obama là con người thực tiễn, và chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể thất bại.
*
Nhưng chủ nghĩa thực tiễn là gì?

Trước hết không nên lẫn lộn chủ nghĩa thực tiễn (realism) với hai triết lý về đạo đức: chủ nghĩa phúc lợi (utilitarianism) và chủ nghĩa thực dụng (pragmatism). Chủ nghĩa phúc lợi là một phương pháp đánh giá hành động, đặc biệt là hành động chính trị, theo tiêu chuẩn hành động đúng là hành động đem lại phúc lợi tối đa cho thật nhiều người; chính vì thế mà chủ nghĩa phúc lợi được coi là một nền tảng của dân chủ; những người khai sáng ra chủ nghĩa này (Bentham và Stuart Mill) cũng là những người đấu tranh nhiệt tình cho dân chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa thực dụng là một phương pháp đánh giá các lý thuyết, theo đó một lý thuyết chỉ đáng để ta quan tâm và học hỏi nếu sự kiện nó đúng hay sai có ảnh hưởng cụ thể trong đời sống, còn nếu không nó chỉ là một lý thuyết suông không đáng để ta mất thì giờ.

Chủ nghĩa thực tiễn không phải là một triết lý, dù là triết lý tri thức hay là triết lý hành động, nó là một thái độ hướng dẫn chọn lựa, theo đó mỗi khi có mâu thuẫn giữa quyền lợi và nguyên tắc thì quyền lợi phải được dành ưu tiên, trái tim phải phục tùng cái đầu, tình cảm phải nhường chỗ cho lý trí. Obama thực tiễn cho nên dù ông có cho rằng các chế độc độc tài là sai ông cũng sẵn sàng bắt tay như ông đã nói trong bài diễn văn nhậm chức của ông, hay như khi ông định nghĩa dân chủ một cách chung chung và khẳng định rằng không một quốc gia nào có quyền quyết định thế nào là một chế độ đúng cho một nước khác để khỏi bị sự chống đối của các chế độ độc tài. Đặng Tiểu Bình cũng phát biểu chủ nghĩa thực tiễn khi ông nói “mèo trắng mèo đen mèo nào cũng được miễn là bắt chuột”. Bản chất của một chế độ không có tầm quan trọng nào trong chính sách đối ngoại của một chính quyền thực tiễn, điều quan trọng là lợi và hại.

*
Các chính trị gia thực tiễn không bao giờ nhìn nhận là chủ nghĩa thực tiễn đồng nghĩa với sự mềm yếu. Họ có thể viện dẫn trường hợp nhiều nhân vật rất quả quyết từng được coi, có khi tự coi, là thực tiễn. Barry Goldwater, Richard Nixon và Ronald Reagan đã được coi là những chính trị gia Mỹ thực tiễn. Với một bản chất khác hẳn, Lenin, Stalin và Đặng Tiểu Bình cũng là những con người rất thực tiễn. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn thì sự thực có thể khác.

Năm 1964 nghị sĩ Barry Goldwater tranh cử với tổng thống Johnson trên một lập trường mà ông cho là thực tiễn và có thể tóm tắt như sau: hy vọng thoả hiệp với cộng sản chỉ là hão huyền, cộng sản chỉ hiểu ngôn ngữ của sức mạnh vì thế thái độ thực tiễn nhất đối với họ là phải tỏ ra sẵn sàng dùng sức mạnh, phải sẵn sàng tăng cường quân lực tại Việt Nam, sẵn sàng đánh Cuba, Trung Quốc và cả Liên Xô nếu cần. Thực ra Goldwater không phải là một người thực tiễn. Ở vào giữa thập niên 1960, cao điểm của phong trào phản chiến và chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy một lập trường như thế là chuốc lấy thảm bại, và quả nhiên Goldwater đã thua rất xa Johnson trong cuộc tranh cử tổng thống. Goldwater đã lấy thái độ diều hâu như thế, dù biết sẽ thất cử, chỉ để chặn đứng khuynh hướng chủ bại. Ông là một người lý tưởng. Reagan có lúc cũng đã bị đánh giá là thực tiễn một cách sơ đẳng như Goldwater nhưng đã chứng tỏ là một tổng thống lỗi lạc, có lý tưởng, bản lãnh và tầm nhìn. Chỉ có Nixon quả thực là con người thực tiễn. Người Mỹ không còn chấp nhận những hy sinh tại Việt Nam? Vậy thì phải Việt Nam hoá chiến tranh và chuẩn bị triệt thoái. Khối cộng sản có dấu hiệu chia rẽ? Vậy hãy bắt tay với Mao để tách hẳn Trung Quốc và Liên Xô mà không cần thắc mắc về bản chất tội ác của chế độ Trung Cộng. Đặc tính thực sự của chủ nghĩa thực tiễn là sự mưu tìm hiệu quả một cách giản dị trong lý luận và hành động ngay cả nếu phải hy sinh hoặc gác lại các nguyên tắc nền tảng. Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đều đã hành động giản dị như thế, và vì họ không bị ràng buộc bởi một luật pháp nào nên họ đã không dừng tay trước tội ác.

Trong trường hợp các nước dân chủ, mà bản chất là muốn giải quyết mọi vấn đề trước hết bằng đường lối hoà bình, chính do sự giản dị của nó mà chủ nghĩa thực tiễn dẫn đến sự nhu nhược một cách khá tự nhiên. Lý do là vì đối đầu luôn luôn là một chọn lựa khó khăn, đòi hỏi sự quyết tâm mà những người thực tiễn thường không có. Hơn nữa đối đầu bao giờ cũng bao hàm một thiệt hại nào đó lúc ban đầu cho nên không được coi là khôn ngoan, nhất là khi quyền lợi quốc gia không bị trực tiếp đe doạ, vì thế những người lãnh đạo thực tiễn thường hay chọn giải pháp nhân nhượng và thoả hiệp, ngay cả khi những giá trị nền tảng bị vi phạm.

Chủ nghĩa thực tiễn thường được hưởng một lợi thế về ngôn ngữ. Người ta thường có khuynh hướng coi thực tiễn là thái độ đúng và có lợi, ngược lại với thực tiễn là viển vông và vô ích. Nhưng đây chỉ là một sự hiểu lầm. Không cần phải là một người thực tiễn, bất cứ ai cũng đều hành động nhắm lợi ích. Ngay cả những nhà tu hành cũng chỉ chọn cuộc sống tu hành vì nghĩ đó là cách sống có lợi nhất, hoặc vì nó mở cửa thiên đường cho cuộc sống vĩnh cửu sau này, hoặc vì cho rằng đó mới là hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc đời này. Tất cả vấn đề chỉ là quan niệm thế nào là quyền lợi, quyền lợi thực sự hay quyền lợi biểu kiến, quyền lợi lâu dài hay quyền lợi ngắn hạn. Chủ nghĩa thực tiễn dựa trên thực tại trước mắt và coi nhẹ các nguyên tắc và giá trị nền tảng nên thường chỉ là quyền lợi ngắn hạn. Các nguyên tắc và các giá trị nền tảng là gì nếu không phải là những điều mà trí tuệ và kinh nghiệm cho thấy là nên tuân thủ vì phúc lợi lâu dài?

*

Một đặc tính của chủ nghĩa thực tiễn là nó không phù hợp với thực tế. Nó luôn luôn nhắm tiến thẳng tới mục tiêu bằng giải pháp trực tiếp nhất và vì thế luôn luôn bị hụt hẫng. Thực tại không ngừng thay đổi cho nên những người thực tiễn phải vất vả chạy theo nó và có mọi triển vọng là sau khi đã tốn nhiều thì giờ và cố gắng người ta nhận ra rằng thực tại đã thay đổi đến độ mà mục tiêu theo đuổi đã mất ý nghĩa. Làm chính trị là hò hẹn với tương lai cho nên khả năng quan trọng nhất là tiên liệu cái gì sẽ xảy ra, các vấn đề hiện nay sẽ đặt ra như thế nào trong tương lai, các vấn đề nào sẽ không còn đặt ra nữa và các vấn đề mới nào sẽ xuất hiện. Người làm chính trị phải có viễn kiến. Chủ nghĩa thực tiễn thực ra chỉ tố giác sự thiếu viễn kiến. Các trường đại học, và các cố gắng trau dồi văn hoá nói chung, không nhắm mục đích nào khác ngoài việc cho chúng ta khả năng nhìn xa trông rộng, nói cách khác là giải phóng chúng ta khỏi phản xạ thực tiễn.

Một đặc tính khác cần được lưu ý của chủ nghĩa thực tiễn mà có lẽ Obama không thấy là nó luôn luôn sai trong chính sách đối ngoại. Nó bỏ qua quan tâm ý thức hệ để chỉ đặt chính sách đối ngoại trên nền tảng quyền lợi mà không biết rằng ý thức hệ, nghĩa là bản chất của chế độ, bao giờ cũng quyết định chính sách ngoại giao và các đồng minh của một quốc gia. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Dù Hoa Kỳ và các nước dân chủ phương Tây có ve vãn đến đâu đi nữa thì các chế độ độc tài Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Sudan, Miến Điện, Iran… vẫn coi họ là thù địch, và dù trong thâm tâm các chế độ độc tài có khinh bỉ nhau thế nào đi nữa chúng vẫn là đồng minh. Câu nói “buột miệng” của ông Nguyễn Minh Triết (theo đó ông tìm cách “phân hoá” nước Mỹ) là một bằng cớ.

Mỹ và các nước dân chủ nói chung cần rút kinh nghiệm trên hai trường hợp mà chủ nghĩa thực tiễn đã được thể hiện. Trong hơn ba thập qua họ đã hợp tác với Trung Quốc mà không đặt vấn đề bản chất của chế độ, ngay cả sau cuộc thảm sát Thiên An Môn, có lẽ với hy vọng là tăng trưởng kinh tế tự nó sẽ dần dần đem đến dân chủ (cứ như là độc tài là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân của sự nghèo khổ). Thực tế đã không như vậy, nhờ giao thương với các nước dân chủ, đặc biệt là Hoa Kỳ, Trung Quốc đã mạnh hơn nhiều nhưng vẫn là một chế độ bạo ngược và còn yểm trợ cho nhiều chế độ hung bạo khác. Đôi khi Trung Quốc còn được viện dẫn như là một bằng cớ về sự đúng đắn của chủ thuyết tăng trưởng kinh tế bất chấp nhân quyền. Sức mạnh kinh tế đã chỉ khiến Trung Quốc tự tin hơn trong thái độ thách thức và đang trở thành một lo âu cho thế giới. Một bài học khác là Pakistan. Tại đây, một cách thực tiễn, Hoa Kỳ đã ủng hộ chế độ quân phiệt của tướng Pervez Musharraf sau khi ông này đảo chính lật đổ chính quyền dân cử cuối năm 1999 và coi ông này như một đồng minh đắc lực trong cuộc chiến tranh chống khủng bố. Thực tế đã ngược hẳn với sự mong đợi, chính Musharraf đã giúp quân khủng bố Taliban hồi sinh; Hoa Kỳ đã chỉ tỉnh mộng một cách muộn màng. Bản chất của những tập đoàn độc tài là gian trá. Phải nói rõ để tránh mọi hiểu lầm: ngày nay ít ai còn đòi hỏi cô lập và trừng phạt các chế độ độc tài, các biện pháp này chỉ đánh vào nạn nhân thay vì thủ phạm. Nhưng ít nhất cũng phải gây áp lực và gắn bó hợp tác với những tiến bộ về nhân quyền bởi vì đó vừa là đạo đức quốc tế được qui định trong hiến chương Liên Hiệp Quốc vừa là điều kiện để có những đối tác đáng tin cậy.

Coi nhẹ các giá trị dân chủ và nhân quyền còn là một sai lầm lớn nếu hoà bình là điều cần được trân quý nhất. Trong lịch sử thế giới các cuộc chiến đã chỉ xảy ra hoặc giữa các nước độc tài với nhau hoặc giữa một nước độc tài và một nước dân chủ. Chưa có trường hợp hai nước dân chủ chiến tranh với nhau. Dân chủ và nhân quyền là nền tảng của hoà bình.

Chủ nghĩa thực tiễn chỉ có thể đem lại thất vọng bởi vì trong chiều sâu nó là một sự từ nhiệm. Dân chúng chờ đợi ở những người lãnh đạo khả năng, viễn kiến và đởm lược để lấy những quyết định khó khăn có thể khó hiểu và nhức nhối lúc ban đầu chứ không phải để lấy những quyết định hiển nhiên, dễ dãi. Người dân đòi hỏi người lãnh đạo phải đi trước họ, họ bầu ra người lãnh đạo để nếu cần áp đặt những cố gắng và hy sinh cần thiết chứ không phải để chạy theo họ. Vả lại nếu không có viễn kiến và lý tưởng thì bước vào trường chính trị để làm gì? Các chính trị gia thực tiễn có thể được lòng dân lúc mới xuất hiện nhưng chắc chắn sẽ gây thất vọng sau đó. Trong trường hợp Obama sự thất vọng còn lớn hơn bởi vì rất nhiều người đã bỏ phiếu cho ông vì những giá trị dân chủ và nhân quyền để rồi khám phá ra rằng chính ông không tha thiết gì lắm với những giá trị này.

Có một bài toán động học và hình học giải tích trình bày một cách khá chính xác chủ nghỉa thực tiễn. Bài toán, với cái tên dí dỏm là “quỹ đạo của chó”, mô tả một con chó đuổi bắt một đối tượng đang di chuyển. Chó có bản năng rất thực tiễn nên nhắm thẳng đối tượng mà chạy tới nhưng vì đối tượng di chuyển không ngừng nên chính tính thực tiễn của nó khiến chó phải chạy trên một quỹ đạo rất cầu kỳ, ngay cả nếu đối tượng di chuyển một các giản dị trên một đường thẳng với một vận tốc cố định. Trong trường hợp đối tượng di chuyển một cách phức tạp hơn thì bài toán không có giải đáp. Chủ nghĩa thực tiễn được chứng minh là sai bằng toán học.

*
Một lời sau cùng: tại sao người Việt Nam cần hiểu rằng chủ nghĩa thực tiễn là sai? Đó là vì cuộc đấu tranh cho dân chủ đang rất vất vả với chủ nghĩa thực tiễn. Có quá nhiều người mong muốn một tương lai dân chủ cho Việt Nam nhưng lại suy nghĩ và hành động một cách thực tiễn. Trong nội bộ đảng và nhà nước cộng sản thái độ thực tiễn là không bộc lộ lập trường dân chủ để khỏi bị trù dập và vô hiệu hoá. Ngoài xã hội thái độ thực tiễn là kiếm tiền, và làm giàu nếu có thể được, thay vì đối đầu với một chính quyền đồ sộ và hung bạo. Chủ nghĩa thực tiễn có một tên gọi khác: chủ nghĩa luồn lách. Người ta chán ghét chế độ nhưng thấy phải thoả hiệp với thực tại để sống, và vì thế vô tình củng cố chế độ. Cuộc chuyển hoá về dân chủ là một cuộc cách mạng rất lớn, như chưa từng có trong lịch sử nước ta. Nó đòi hỏi những trí tuệ và những tấm lòng rất lớn. Những người thực tiễn chẳng bao giờ làm được những thay đổi lớn và thực sự đáng mong ước.

Nguồn: Thông Luận.

Chủ nghĩa thực tiễn” và trường hợp ông Nguyễn Gia Kiểng

Nhân đọc bài “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của tác giả Nguyễn Gia Kiểng, xin có vài dòng ý kiến dưới góc nhìn của một bạn đọc. Cũng xin được hiểu bài viết của ông dưới góc độ triết lý và chính trị, vì ông Nguyễn Gia Kiểng dường như là một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, chứ không phải là một người viết bình thường.

Sau khi tìm hiểu chủ nghĩa thực dụng Mỹ của Sanders Charles Peirce. Có lẽ đây là lần đầu tiên, người viết bài này được biết thêm một chủ nghĩa mới – Chủ nghĩa thực tiễn – Một phát minh (hay là một phát hiện) của ông Nguyễn Gia Kiểng.

Trước hết, thế nào là một chủ nghĩa? “Chủ nghĩa” là tập hợp những nguyên tắc lý luận về nhận thức, tư tưởng. Nó tạo nên một hệ thống lý thuyết nhằm định hướng một cách có ý thức cho hoạt động của con người.

Vấn đề thực tiễn là gì? Thực tiễn là một phạm trù. Nó phản ánh quá khứ và hiện tại, hoàn toàn phụ thuộc vào những gì đã và đang diễn ra trong cuộc sống. Thực tiễn giống như một tấm gương phản chiếu mọi sự vật. Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhận thức. Nó giúp con người nhân thức được những gì tốt và xấu, thuận và nghịch đang diễn ra. Từ đó người ta rút ra được những kinh nghiệm cho các hoạt động sống trong tương lai. Vì vậy thực tiễn không phải là bản chất, nó chỉ là hiện tượng nhằm phản ánh thực tế của cuộc sống.

Ông Nguyễn Gia Kiểng là một con người sáng tạo. Không ít người đã từng “toát mồ hôi hột” khi đọc tựa đề bài viết “Tổ Quốc Ăn Năn” của ông, vì người ta không hiểu được, “tổ quốc” chỉ là một khái niệm, tại sao khái niệm lại biết…ăn năn? Trong bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” Ông lại sáng tạo ra một chủ nghĩa mới, đó là “chủ nghĩa thực tiễn”. Theo quan điểm riêng, trên thực tế không thể có “chủ nghĩa thực tiễn”, vì nó không có những yếu tố cần và đủ để có thể cấu thành một chủ nghĩa như đã dẫn ở trên.

Hoạt động sống không thể thiếu sự sáng tạo. Cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và tiến bộ là điều luôn xảy ra. Việc xúc tiến để biến đổi xã hội Việt Nam hiện nay từ chế độ Độc Tài độc đảng sang chế độ Đa Nguyên Dân Chủ là một công việc tất yếu. Đó thực sự là một cuộc cách mạng. Muốn có cách mạng thì phải có lý luận cách mạng, đó cũng là điều tối quan trọng và cần thiết. Thế nhưng lý luận đó sẽ như thế nào? Có phù hợp với văn hóa, lối sống, nếp nghĩ của người dân (đại chúng) hay không, có sáng tạo hay không? Đó là điều cần quan tâm hàng đầu. Nhưng không vì vậy mà ta cứ sáng tạo (ra lý luận) một cách tùy ý, thậm chí là… tùy tiện!

Trong bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông đã viện dẫn ra câu chuyện “quỹ đạo của chó”. Đây là một câu chuyện lại không có (hoặc rất ít)… thực tế! Chó là một loài vật được người thuần dưỡng từ rất sớm, có lẽ là từ buổi bình minh của loài người. Loại trừ chó hoang dạng Dingo, chó Sói (ít khi săn những con mồi nhỏ như Thỏ), một số ít chú Chó dùng cho việc đi săn của người cũng chỉ được giao nhiệm vụ đánh hơi, theo dõi phát hiện con mồi mà thôi. Vì vậy kỹ năng săn mồi của Chó (nhà) hiện nay là rất kém. Về tư duy (!), Chó chỉ là bậc con cháu so với loài Cáo. Cáo là một loài thông minh, nó biết cách giả chết khi cần (thậm chí một số họ nhà Cáo có thể tiết ra mùi của xác chết), nó biết cách rình mồi, bí mật tiếp cận và tung đòn tấn công chớp nhoáng (chưa kể đến tốc độ chạy của Cáo cũng thuộc loại đáng nể). Vì vậy, trong hầu hết các cuộc đối đầu với Cáo, Thỏ đều chịu thúc thủ. Con Cáo chẳng cần dùng chiến thuật “hò hẹn với tương lai” (lại một sáng tạo về ngôn ngữ) như ông Nguyễn Gia Kiểng đã trình bày. Cáo có chiến thuật khác – Chiến thuật thông minh – Hay ngày nay như người ta thường nói, dùng “sức mạnh thông minh” (học thuyết của Gioseph Nye), có thể tạm ví như vậy. Có lẽ câu chuyện “quỹ đạo của chó” nên viết thành “sức mạnh thông minh của Cáo” thì tính thuyết phục sẽ cao hơn?

Nhận xét của ông Nguyễn Gia Kiểng về ông Obama. Người viết bài này hoàn toàn tôn trọng ý kiến cá nhân của ông. Theo ý hiểu riêng, chắc ông Kiểng cũng chỉ nhằm làm sáng tỏ vấn đề “chủ nghĩa thực tiễn” của ông, để áp dụng (hay là giải thích sự chậm trễ) vấn đề “dân chủ đa nguyên” ở Việt Nam mà thôi.

Tổng thống Obama nhậm chức trong lúc cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu đang lên. Ông Obama (cùng bộ máy của ông) giữ được sự cân bằng của nền kinh tế Mỹ, đã là một thắng lợi. “Nước Mỹ và chính quyền Obama cần phải tỉnh táo để không áp dụng những sai lầm của chủ nghĩa hiện thực giáo điều cho các quyết sách kinh tế và ngoại giao của mình”. Đó là phát biểu của Paul Wolfowitz- Một nhà đối ngoại hàng đầu dưới thời tổng thống George Bush.

Với phương châm “không can thiệp vào nội bộ các nước khác”. Người Mỹ chủ trương “xử lý mối quan hệ giữa các nước với nhau” hơn là “trực tiếp làm thay đổi bản chất của một chế độ nào đó”. Họ không chủ trương “áp đặt giá trị của nền văn minh Mỹ lên một nước khác”. Chính vì vậy, mọi tư tưởng “há miệng chờ sung” của ai đó, mong người Mỹ dọn cỗ sẵn sàng, để mình chỉ việc ngồi vào ăn, là một việc làm hoàn toàn thụ động và sai lầm.

Người Mỹ, tổng thống Obama, hay một vị tổng thống tiền nhiệm nào của ông có thể mắc sai lầm. Điều đó cũng dễ hiểu vì họ cũng là những con người bằng xương bằng thịt mà thôi. Hơn bao giờ hết, người Mỹ (cụ thể là bất kỳ vị tổng thống nào của họ) đều phải ưu tiên đặt lợi ích của nước Mỹ lên hàng đầu, nếu các vị tổng thống này muốn nhận được sự ủng hộ từ các cử tri của mình…

Phong trào dân chủ ở một nước nhỏ (như Việt Nam) chỉ nên trông chờ vào các nước lớn bởi sức ép chính trị (hợp lý và hợp pháp) của họ trên các diễn đàn quốc tế. Chính nhờ điều này, hiện nay các nước độc tài trên thế giới ít nhiều đều có những sự “chuyển động” nào đó. Nhưng những thay đổi ấy vẫn chưa đáp ứng được với mong mỏi của nhân dân (đặc biệt là đối với những nhà chính trị như ông Nguyễn Gia Kiểng). Cho nên chúng ta có thể hiểu được (phần nào) những chỉ trích của ông Kiểng đã dành cho tổng thống Obama…

Tựu chung lại, người viết bài này không có ý công kích ông Nguyễn Gia Kiểng. Chỉ xin bày tỏ quan điểm và suy nghĩ riêng của mình về bài viết “Chủ Nghĩa Thực Tiễn Và Trường Hợp Obama” của ông. Cùng một vài nhận xét chủ quan trong phạm vi vốn kiến thức còn nhiều khiêm tốn của mình.

Thiết nghĩ, người dân Việt trong nước đang cần những điều thiết thực bằng hành động của bà con người Việt hải ngoại, cụ thể:

Tạo áp lực lên chính phủ các quốc gia mà mình đang cư trú, yêu cầu họ có tiếng nói lên án chế độ độc tài thiếu dân chủ ở Việt Nam. Đòi nhà nước Việt Nam tôn trọng các cam kết của họ về việc thực thi nhân quyền (được thể hiện trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyên), bảo đảm các quyền tự do về dân sự, tự do về chính trị cho người dân.

Giúp đỡ tiền bạc, phương tiện cho các cá nhân và tổ chức đấu tranh (chủ yếu là trong nước), nhằm phá thế bao vây kinh tế của chế độ độc tài.

Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh giành quyền tự do Internet, nhằm gỡ bỏ “bức màn sắt thông tin” (lời của bà Hillary Clinton) đang bao trùm lên xã hội Việt Nam. Qua đó cải thiện kiến thức nhân quyền cho nhân dân trong nước. Nhưng không phải bằng những sản phẩm văn hóa lạc lõng, các bài viết nặng tính giáo điều. Vì chính những tư tưởng chính trị sai lạc, mơ hồ, sẽ đem lai một cuộc cách mạng mất định hướng. Điều này chắc chắn những nhà chính trị như ông Nguyễn Gia Kiểng, là những người biết rõ hơn ai hết.

© Lê Nguyên Hồng

© Đàn Chim Việt

Nhận định

Năm 2009 vừa qua, hàng loạt những nhà dân chủ bị cầm tù với những bản án nặng nề, nhà cầm quyền CSVN tung ra những đòn phủ đầu lên lực lượng dân chủ hòng dập tắt lòng yêu nước và khát vọng tự do.. nếu nhà cầm quyền cộng sản VN nghĩ như vậy thì thật là hoang đường…Vì sao?

Khi nào Thế giới tự do còn, nhân loại văn minh và những giá trị Tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là xu thế và khát vọng của nhân loại, và khi nào cộng đồng Việt Nam tự do ở hải ngoại còn thì mầm mống dân chủ sẽ tiếp tục nảy nở-phát triển. Không có một cường quyền nào có thể dập tắt được, cho nên tôi vẫn tin tưởng rằng tương lai của đất nước VN dân tộc VN sẽ tươi sáng và ngày mà VN hội nhập vào với gia đình, cộng đồng các nước dân chủ đang gần kề.

Tôi vẫn tin tưởng và chờ đợi trong hy vọng từ trước đến nay.. trước khi học thuyết Clinton hình thành.. nhưng phải nói rằng việc Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Obama nâng giá trị Nhân quyền và quyền tự do Internet lên tầm vóc “Học thuyết” là điều chưa từng có trong lịch sử, nó sẽ cổ võ cho những người đang đấu tranh cho quyền tự do phát biểu trên mạng thông tin toàn cầu, nó thổi thêm một luồng sinh khí cho một phần nhân loại đang bị bóp ngẹt thông tin dưới các chế độ độc tài chuyên chế…

Tôi xin được trao đổi với độc giả Đàn Chim Việt như một người bạn: Với tham vọng bá quyền của Trung cộng.. cục diện chính trị của khu vực và Thế giới sẽ thay đổi

Trong tương lai gần, Trung cộng sẽ tự chuyển biến sang một nhà nước Dân chủ hoặc sẽ bị tiêu diệt bởi chính tham vọng Bá quyền của mình.

Cộng sản VN cũng như bất cứ chế độ độc tài nào, dùng cường quyền để cai trị.. dùng sự sợ hải để giữ “ổn định” và đặc quyền đặc lợi để củng cố xây dựng lực lượng

Vì chính sách cường quyền cho nên mất lòng dân.. vì dùng lợi lộc để phát triển lực lượng nên tạo ra một tầng lớp cơ hội đông đảo và có uy lực, và cũng chính tầng lớp cơ hội này sẽ tiêu diệt chế độ cộng sản khi thời cơ đến.

Trung cộng sẽ sụp đổ vì chính sức nặng của nó, hoặc sẽ bị tiêu diệt vì ngày nay nó đã biến thành hiểm họa của cả Thế giới…Chế độ hiện nay đang nấp dưới chiếc ô dù của “sức mạnh Trung quốc”, đây là lý do vì sao những người CSVN không dám lên tiếng bảo vệ đất nước trước hành động ngang ngược của Trung cộng vì Trung cộng như một bảo đảm chính trị cho chế độ. Khi nào Trung cộng còn thì những người dân VN, những người CSVN, những người cơ hội vẫn có cảm tưởng rằng họ còn có cả một hệ thống vững chắc.. “khối XHCN”. Chính vì vậy mà Đảng CSVN không bao giờ dám động đến hoặc làm phương hại đến hình ảnh,biểu tượng cho sự sức mạnh và trường tồn của họ.

Một ngày không xa Trung cộng sẽ bị tiêu diệt vì là nguyên nhân của chiến tranh (hoặc sụp đổ bởi lý do nội tại) thì đảng CSVN sẽ bị cô lập, nhanh chóng bị nhân dân tẩy chay.. thành phần cơ hội sẽ khởi động một cuộc tắm máu, tiêu diệt đảng CSVN để mưu cầu một vị trí mới trong một xã hội mới.

Theo tôi thành phần cơ hội là một hiểm họa đối với đảng CS.. là một thứ vi trùng… khu trú trong cơ thể chế độ.

Ngày hôm nay những người CSVN đang tung ra những đòn chí tử hòng dập tắt phong tào dân chủ và những tổ chức xã hội dân sự. Họ đâu ngờ rằng làm như vậy cũng là dập tắt luôn cơ hội sống còn cho chính bản thân và gia đình mình. Vì chính những nhà dân chủ hôm nay đang bị đàn áp, bị cầm tù, và những hội đoàn dân sự đang bị truy bức sẽ là tiền đề, là những nhân tố quyết định để xây dựng một thể chế Dân chủ thực sự…văn minh và nhân bản. Chính chế độ Dân chủ văn minh và nhân bản sẽ bảo vệ những người cộng sản và gia đình họ khi họ mất hết quyền lực.

Thành phần cơ hội mà chế độ nuôi dưỡng hiện nay là một hiểm họa cho đất nước và cho chính những người cộng sản vì đối với bọn cơ hội, mục tiêu của họ là quyền lợi và quyền lực. Khi TC sụp đổ, CSVN mất chỗ dựa, mất thế lực hỗ trợ, thành phần cơ hội sẽ nhanh chóng “nhả khói quay đầu” và sẽ thẳng tay tiêu diệt những người cộng sản và gia đình họ để khẳng định mình là những người “chống cộng”, để mưu tìm một chỗ đứng mới trong một xã hội mới.

Đối với những người dân chủ, thành phần cơ hội vừa là “đồng minh cơ hội” khi thời cơ đến, vừa là một gánh nặng có khi là một hiểm họa…Vì khi chế độ CS sụp đổ, nguy cơ hình thành một chế độ độc tài khác là một thực tế. Đây là một bài toán, một thách thức đối với lực lượng và thể chế dân chủ trong tương lai.

Cách tốt nhất cho những người cộng sản hiện nay là chấm dứt ngay việc đàn áp, bắt bớ những nhà dân chủ và thôi ngay việc truy bức những tổ chức xã hội dân sự rồi “hạ cánh”… Nhưng đây là việc vô cùng khó đối với họ vì nhiều lý do, trong đó có sự đam mê quyền lực, bảo thủ, tham lam và thiển cận, sống trong ảo tưởng rằng “thế giới sẽ bình an…VN sẽ phát triển” và họ cùng con cháu họ tha hồ hưởng vinh hoa phú quý trên đầu trên cổ người dân cho đến khi…. quá muộn.

Chúng ta hi vọng trong hàng ngũ Đảng cộng sản còn những người có lương tâm, hoặc thức thời có tầm nhìn xa trông rộng sẽ chuyển hướng con tàu VN, nhưng thực lòng …hi vọng này khó thành hiện thực!?

Chúng ta không hề muốn cho bất cứ ai bị tổn thương, đổ máu nhưng những chính sách mù quáng của những người CS hiện nay tạo tiền đề cho điều đó.

Theo nhận định của người viết bài này, VN sẽ xảy ra 1 trong 2 kịch bản sau:

1. Như Nicolae Ceausescu ở Rumani

2. Như Saddam Hussein của Iraq.

Nếu những người cộng sản Việt nam cứ tiếp tục khư khư nắm giữ quyền lực và tiếp tục cách hành xử như hiện nay mà bất chấp ý nguyện của người dân và xu thế của thời đại.

© Đàn Chim Việt Online

Phần sau:

Nguồn: flick.com

Tôi vừa đọc bài “Chủ nghĩa Thực tiễn và trường hợp của Obama” của ông Nguyễn Gia Kiểng, và bài phản biện của tác giả Lê Nguyên Hồng. Với tấm lòng của một độc giả ĐCV, tôi xin góp một vài ý kiến.

1. Thưa ông Lê Nguyên Hồng, theo thiển ý của tôi thì ông NGK dùng chữ “Tổ quốc ăn năn” là thỏa đáng: Tổ quốc ở đây không còn là một khái niệm mà nó đã được nhân cách hóa, Tổ quốc đồng nghĩa với dân tộc, đồng bào rồi nên ông NGK dùng cụm từ “Tổ quốc ăn năn” là rất hay đấy chứ?

2. Ông NGK dùng từ “Chủ nghĩa thực tiễn” cũng không có gì là không thỏa đáng. Theo tôi “Chủ nghĩa” không nhất thiết phải hình thành từ một hệ thống lý luận.

Khi nào một quan điểm một lối sống, một lối tư duy và hành động của một cộng đồng đông đảo hay là chiến lược, chính sách của những nhà lãnh đạo xuyên suốt một giai đoạn lịch sử nào đó…thì nó mặc nhiên đã là một “chủ nghĩa” rồi. Tuy là một chủ nghĩa “bất thành văn” nhưng nó thật sự là một chủ nghĩa vì nó chi phối, định hướng cho cả một dân tộc, một cộng đồng to lớn, cho cả mấy thế hệ lãnh đạo!!.

Trong thực tiễn cuộc sống có những luật “bất thành văn” thì cũng có “chủ nghĩa” bất thành văn chứ? Đó cũng là việc bình thường thôi!

Ở VN hiện nay tồn tại một dư luận phổ biến như thế này về nước Mỹ (từ những người dân bình thường hoặc của những trí thức không Cộng sản).

Người Mỹ rất thực tế-thực tiến. Họ rất coi trọng quyền lợi và nhu cầu trước mắt đến nỗi họ sẵn sàng bỏ qua những giá trị căn bản của họ hoặc chỉ hô hào Tự do Dân chủ Nhân quyền một cách biểu kiến?!

Trong mối quan hệ “đối tác” giữa Trung cộng và Việt cộng chẳng hạn, những giá trị Tự do Dân chủ Nhân quyền là những giá trị mờ nhạt thứ yếu (Trong chuyến công du Bắc kinh khi mới nhậm chức, bà ngoại trưởng Hillary Clinton đã tuyên bố một cách tương tự như vậy trong mối quan hệ với Trung cộng). Và cách đây không lâu, khi TT Bush sang VN dự hội nghị APEC đã lờ đi không nhắc đến vấn đề Dân chủ, Nhân quyền với nhà cầm quyền CSVN cũng vì để mưu cầu một mối quan hệ kinh tế-chiến lược!

Có quá nhiều những thí dụ như vậy!

Nhìn lại lịch sử hiện đại, khi cổ máy chiến tranh của Trục Phát xít hùng hổ khắp thế giới Mỹ đã cuống cuồng lo đối phó: Họ liên minh với Liên Xô viện trợ ồ ạt cho Liên Xô để chống phát xít mà không thấy rằng Liên Xô là một hiểm họa cho nước Mỹ và thế giới Tự do trong tương lai và còn nguy hiểm hơn cả chủ nghĩa Phát xít… và điều đó đã xảy ra..

Khi Liên Xô và Đông Âu trở thành mối đe dọa đối với Mỹ và Phương Tây thì lại một lần nữa, Mỹ cuống cuồng tìm đồng minh để đối phó và họ đã hà hơi tiếp sức cho TC với ý đồ dùng TC đối trọng với Liên Xô mà không nhìn thấy rằng TC là một hiểm họa trong tương lai, còn nguy hiểm hơn cả Đông Âu và Liên Xô cộng lại.

Đúng là Mỹ “dưỡng hổ di họa”…

Còn tại VN Mỹ đã phạm một sai lầm chí tử: Đó là lật đổ TT Ngô Đình Diệm rồi ồ ạt đổ quân vào Miền Nam VN biến cuộc chiến tranh xâm lược của Miền Bắc cộng sản thành “cuộc chiến chính nghĩa” “chống Mỹ cứu nước”, đẩy Miền Nam vào hỗn loạn và sau đó rút quân và cắt hoàn toàn viện trợ..dẫn đến sự sụp đổ của một chế độ dân chủ non trẻ nhưng tiến bộ bậc nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ.

Tất cả những việc đó làm cho rất nhiều người có cảm tưởng rằng Nước Mỹ và giới lãnh đạo không có tầm nhìn chiến lược. Họ chỉ lo giải quyết tình thế. Họ là một siêu cường duy nhất trên Thế giới nhưng họ không tạo nên thời cuộc mà chỉ chạy theo thời cuộc, bị thời cuộc kéo lê xềnh xệch.!!

Người ta thấy chính sách của nước Mỹ bị chi phối quá nhiều bởi những tập đoàn tài chính và công nghiệp, cộng với những hội đoàn gây áp lực…còn lý tưởng tự do, dân chủ thì không phải là giá trị chỉ đạo, giá trị nguyên tắc.!.

Trong tương lai không biết nước Mỹ “xử lý”mối quan hệ với TC như thế nào,chỉ thấy hai nước quá tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế. Trong vấn đề này thì TC khôn ngoan hơn Mỹ rất nhiều, họ dùng quan hệ thương mại với Mỹ như một động lực để phát triển kinh tế và quân sự, vừa như một sự trói buộc Mỹ vào mối quan hệ nhùng nhằng.!!.

Nhìn nhận và đánh giá nước Mỹ như thế nào là quyền của mỗi người.

Riêng tôi,cho dù mối quan hệ “đối tác chiến lược” Mỹ-Trung có quan trọng với cả 2 như thế nào đi nữa thì với tham vọng không giới hạn của Trung cộng, mối quan hệ này sẽ đi vào bế tắc và xung đột là tất yếu. Mỹ vì quyền lợi sống còn của mình sẽ phải có đối sách và lựa chọn. Nhưng TC là một kẻ thù cực kỳ nguy hiểm, khôn ngoan và hùng mạnh, nếu nước Mỹ lần này không chiến thắng kẻ thù của mình thì sẽ bị kẻ thù hủy diệt, không hề có chổ cho sự thỏa hiệp, phân vân nhút nhát.

Và tôi cũng tin như đinh đóng cột rằng trước đây người Mỹ đã chiến thắng Phát xít Đức và Quân phiệt Nhật một cách vẻ vang, biến 2 kẻ thù của mình trong chiến tranh trở thành Đồng minh, giúp Mỹ cùng giữ gìn hòa bình Thế giới….Rồi trong cuộc đối đầu với Liên Xô, người Mỹ đã làm cho tên Đế quốc đỏ này kiệt sức, lâm vào khủng hoả ng toàn diện và sụp đổ…Lần này cũng vậy người Mỹ sẽ đánh cho TC một đòn chí mạng, xóa sổ một chế độ tàn độc nhất hành tinh. Và một lần nửa cả thế giới sẽ ngã nón thán phục, tri ân!

VN chúng ta là một nước nhỏ, lại bị VC và TC kìm hãm…chúng ta không thể tạo nên thời cuộc, nhưng chúng ta có thể lợi dụng thời cuộc để mưu tìm một tương lai Tự do, dân chủ, thịnh vượng cho đất nước và dân tộc VN….Tại sao chúng ta không lợi dụng cái thế “Tọa sơn quan Hổ đấu” để chuẩn bị cho tương lai con cháu chúng ta?! Điều này buộc lòng chúng ta phải hành xử một cách “thực tiễn” như người Mỹ vậỵ…Hơn lúc nào hết người Việt Dân chủ chúng ta cần phải đoàn kết hơn nữa!!

© Huỳnh Ngọc Tuấn

© Đàn Chim Việt Online

Bài liên quan:

“Chủ nghĩa thực tiễn” và trường hợp ông Nguyễn Gia Kiểng

Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama

Bài trước:

Nhận định

4 Phản hồi cho “Nhận định [2]”

Việt Hoàng-LB Nga says:
29/03/2010 at 06:43

Một bài viết ngắn nhưng rất hay và đầy đủ, ông Huỳnh Ngọc Tuấn có một cái nhìn rất viễn kiến rằng Mỹ và TQ phải bắt buộc “so găng” trong một tương lai gần và Mỹ sẽ thắng như đã thắng phát xít Đức và Liên xô cũ. Người Mỹ quá thực tiễn nên họ phải giải quyết hậu họa.
Tôi thắc mắc một điều là ít nghe thấy nói về ông Huỳnh Ngọc Tuấn, rất mong ông viết bài nhiều hơn cho Đàn Chim Việt.
Rất mong ông chỉ giáo thêm cho những người Việt Nam yêu nước. Họ phải làm gì? Làm thế nào để đoàn kết được người Việt với nhau? Ông Đặng Văn Âu đã có những đề nghị rất hay về sự Hòa giải dân tộc nhưng vẫn chưa thống nhất được ý kiến giữa những người Việt với nhau. Chúng ta phải làm gì bây giờ?
Reply
Nguyễn Hữu Tâm says:
26/03/2010 at 19:42

Tôi rất đồng ý với t/g HNT . Nhưng tôi mong muốn chúng ta tích cực hơn là ( Toạ sơn quan hổ đấu)
Bằng cách be bờ ngăn cản hay ít nhất không cho sự tàn phá của 2 con hổ làm chúng ta thiệt hại hãy tìm cách đưa đấu trường ra biển . Nơi đó có lợi cho chúng ta hơn là nó xảy ra gần hoặc ngay trên đất nước chúng ta vì với phương châm con gì chết cũng giẫy nếu chúng ta có chuẩn bị thì sự thiệt hai sẽ giảm đi rất nhiều …..
Reply
Hung Cali says:
26/03/2010 at 14:13

Bai viet rat an tuong va thuyet phuc, toi hoan toan ddong y voi tac gia Huynh Ngoc Tuan. Qua nhieu bai viet toi nhan thay tac gia HNT rat co long voi que huong va dan toc Viet. Cam on tac gia va dien ddan DCV.
Reply
Thang Bui says:
26/03/2010 at 10:29

Ai ủng hộ Trung Quốc và nói ông Kiểng sai… thì xin mời di qua Trung Quốc ở và làm nguời TQ cho xong chuyện…
Còn tui ở Mỹ, tui thấy ông Kiểng nói hay, nói đúng… thậm chí còn quá hay, quá đúng… chỉ sợ là ngưòi đọc không có đủ trình độ để hiểu mà thôi… còn chuyện “phản biện” thì xin mời because no one can argue with the idiots!
Reply

Phản hồi

Mặt trái của "Đồng thuận Bắc Kinh"

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2011-06-15
Khi biển Đông còn nổi sóng sau hai vụ khiêu khích và đụng độ của tầu hải giám Trung Quốc với tầu địa chất của Việt Nam thì hàng loạt các vụ biểu tình bạo động bùng nổ tại Hoa lục.


AFP photo

Cảnh sát tuần tra đường phố đã yên ắng hôm 15/6/2011, sau nhiều ngày bạo loạn ở Zengcheng- TQ. Cư dân của một thị trấn phía nam TQ đã mô tả những chiếc xe chìm trong biển lửa trong những ngày xung đột bạo lực trước đó.

Cảnh sát võ trang ra tay trấn áp những điểm nóng, từ khu tự trị Nội Mông của người Mông Cổ đến thành phố Phủ Châu ở Giang Tây, rồi thị xã Lợi Xuyên trong Châu Tự trị có tên là Ân Thi của các sắc tộc Thổ Gia và Miêu ở tỉnh Hồ Bắc.


Mới nhất là tại thành phố Triều Châu và thị xã Tăng Thành trong vùng phụ cận của Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông. Với thành quả kinh tế làm thế giới kinh ngạc, vì sao Trung Quốc lại gặp hỗn loạn tràn lan như vậy? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa trong phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện.


Đồng thuận Bắc Kinh

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, ta hãy tạm gác qua những biến động ngoài biển Đông Nam Á để nhìn vào nội địa Trung Quốc vì từ một tháng nay, nhiều vụ biểu tình đã dẫn tới bạo động liên tục ở nhiều địa điểm khác nhau của xứ này. Chúng ta cũng không quên là hôm 26 Tháng Năm, khi tầu hải giám Trung Quốc cắt dây cáp của tầu thăm dò địa chất Bình Minh 02 của Việt Nam thì thành phố Phủ Châu thuộc tỉnh Giang Tây bị gài chất nổ ở ba nơi một lúc, có thể là do một người dân bất mãn gây ra vì bị cướp đất. Và tuần qua, cảnh sát võ trang xuất hiện ở nhiều nơi của Trung Quốc để đàn áp. Câu đầu tiên xin hỏi ông là "vì sao như vậy?"


Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng đây chỉ là một mặt trái của hiện tượng gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh" mà chúng ta cần tìm hiểu để tránh cho các xứ khác, kể cả Việt Nam, khỏi phạm vào những sai lầm về chính sách kinh tế khi học theo Trung Quốc!


Về nạn động loạn tại Trung Quốc, thế giới không được thông báo và có thống kê đầy đủ, nhưng qua những gì được chính các trung tâm nghiên cứu về xã hội của xứ này nêu ra thì năm 2006 đã xảy ra sáu vạn trường hợp biến động vì dân chúng nổi loạn; năm 2007 thì có 84.000 vụ, năm 2008 thì có 128.000 vụ và đầu năm nay, một giáo sư xã hội của Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh đưa ra con số là 180.000 cho năm 2010, với ước lượng đáng chú ý là đã cao gấp đôi năm 2006!


Do đó, ta có thể kết luận là động loạn xã hội đã tăng và ngoài các sắc tộc thiểu số có phản ứng mạnh ở Tân Cương, Tây Tạng hay Tứ Xuyên từ năm 2008, thì người dân mọi nơi cũng vì bất kỳ vấn đề nào bày tỏ thái độ một cách dữ dội, mà càng bị đàn áp thì họ lại càng nổi loạn.

Vũ Hoàng: Ông vừa nói đến hiện tượng gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh" và cho rằng động loạn ở Trung Quốc là mặt trái của hiện tượng này. Thế "Đồng thuận Bắc Kinh" là cái gì?


Nguyễn Xuân Nghĩa: Số là năm 2004, một nhà báo Mỹ là Joshua Cooper Ramo nhanh nhẩu hệ thống hóa một chuỗi chính sách kinh tế của Trung Quốc thành một tập hợp có vẻ hợp lý rồi dán cho nhãn hiệu là "Đồng thuận Bắc Kinh". Tôi có đọc tập tài liệu này với sự thú vị vì có đầy giải thích khiên cưỡng. Nhưng dù sao thì tác phẩm cũng giúp tác giả trở thành nhân viên và Tổng thư ký của công ty vận động kinh doanh của Tiến sĩ Henry Kissinger gọi là Kissinger and Associates. Công ty vận động kinh doanh là loại "thầy cò", nói hoa mỹ là "du thuyết", là lobby, và ông Kissinger là tay du thuyết đắc lực cho việc kinh doanh tại Trung Quốc. Đó là một lẽ.


Về nội dung "Đồng thuận Bắc Kinh", mà tác giả thêu dệt thành một thứ học thuyết của Trung Quốc về phát triển sau khi gom góp một số phát biểu của lãnh đạo Bắc Kinh, ông ta nhấn mạnh đến ba hướng sáng tạo của Trung Quốc là: Thứ nhất, nhảy vọt vào công nghệ hiện đại để thâu ngắn thời gian chứ không tiến treo cấu trúc cổ điển dựa trên công nghệ lỗi thời, thí dụ như dùng cáp quang, sợi quang học, chứ khỏi cần kéo dây đồng. Thứ hai, không chú trọng đến loại chỉ dấu tổng hợp như đà tăng trưởng lợi tức một đầu người mà cố phát triển phẩm chất của cuộc sống, nôm na là chú ý đến phẩm hơn lượng. Thứ ba là phải phát huy sức tự chủ để tranh hùng với thiên hạ và không cho ai lấn lướt mình.


Bản thân tôi thì chẳng nhận ra chiến lược phát triển của Trung Quốc như vậy mà chỉ thấy là cả ba quan niệm chủ đạo ấy không thể hiện trong thực tế. Thứ nhất, Trung Quốc chỉ học lóm và đang chất kim loại đồng thành núi chứ nào có nhảy vọt vào công nghệ tiên tiến đâu. Thứ hai, Kế hoạch Năm năm thứ 12 vừa ban hành tháng 10 năm ngoái đã chuyển từ lượng sang phẩm vì chiến lược cũ có quá nhiều bất toàn và gây ra động loạn xã hội! Thứ ba, khái niệm phát triển tự chủ là nguồn gốc của hành động bá quyền ngang ngược hiện nay và sẽ gây vấn đề cho xứ này.


Đồng thuận Washington

Vũ Hoàng: Xin hỏi ông ngay một câu, ngày xưa, người ta nói đến "Đồng thuận Washington" như một mô thức phát triển các nước nghèo, nó có khác gì "Đồng thuận Bắc Kinh" không?



Công nhân xưởng quần jean tại Zengcheng-TQ hôm 15/6/2011, sau những ngày xung đột bạo lực khắp miền nam Trung Quốc. AFP photo Nguyễn Xuân Nghĩa: Câu hỏi rất hay và câu chuyện này hơi dài nên tôi xin cố gắng tóm lược.
Hơn 20 năm trước, khi các nền kinh tế thuộc loại đang phát triển bị vỡ nợ và khủng hoảng thì hai định chế tài chính quốc tế là Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới phải nhảy vào cấp cứu. Các kinh tế gia thời ấy mới chủ trương một số biện pháp áp dụng khá khắc nghiệp để xây dựng nền móng phát triển bền vững. Vì hai tổ chức đó có trụ sở tại thủ đô Washington của Mỹ, từ năm 1989 người ta mới dùng chữ "Đồng thuận Washington". Sau này, khi ông Ramo dùng chữ "Đồng thuận Bắc Kinh" chính là trong tinh thần phản biện đầy hấp dẫn về quảng cáo.


Nói cho ngắn gọn thì khái niệm "Đồng thuận Washington" đề cao kỷ luật chi thu ngân sách, tự do về ngoại hối và thương mại, phát triển tư doanh, xây dựng pháp quyền nhà nước dựa trên quy tắc dân chủ, v.v... Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, một học giả Mỹ lạc quan nói đến "sự cáo chung của lịch sử" là khi kinh tế thị trường và chính trị dân chủ trở thành chân lý hoàn vũ mà xứ nào cũng sẽ noi theo. Sự lạc quan dẫn tới việc phổ biến quy tắc "Đồng thuận Washington" và chi phối đối sách quốc tế của Hoa Kỳ và các nước Tây phương.


Đó là đề cao và yểm trợ các nước nghèo cùng cải tổ theo kinh tế thị trường, quan tâm đến môi sinh và lao động, giải trừ nạn tham nhũng, xây dựng xã hội dân sự và nhất là phát huy dân chủ và nhân quyền, v.v... Họ viện trợ các nước cũng theo các tiêu chuẩn nói trên.

Vũ Hoàng: Nhưng mà nhìn như vậy thì hình như ta có thể thấy ra sự đối nghịch mặc nhiên hoặc ngấm ngầm giữa "Đồng thuận Washington" với "Đồng thuận Bắc Kinh", có phải vậy không?


Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa đúng như vậy, vì trong khi ấy, lãnh đạo Bắc Kinh lại chủ trương trái ngược về đối ngoại. Họ đầu tư và viện trợ rất nhiều cho các nước nghèo để đảm bảo nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu và thế liên kết về an ninh, nhưng lại theo hướng khác. Thứ nhất là không xen lấn vào nội bộ hoặc nêu điều kiện về nhân quyền hay tham nhũng của các quốc gia thọ nhận. Thứ hai, tranh thủ hậu thuẫn của các xứ này về ngoại giao và an ninh chiến lược. Và thứ ba là phát huy tình liên đới giữa các nước đang phát triển với nhau thành một lực đối trọng với các nước công nghiệp hoá Tây phương.


Điều ly kỳ ở đây là vì tự xưng là một nước đang phát triển, Trung Quốc được Ngân hàng Thế giới viện trợ tổng cộng hơn 49 tỷ 600 triệu đô la tính đến ngày 13 Tháng Sáu vừa qua và thực hiện nhiều dự án gây lãng phí. Nhưng song song, Bắc Kinh có trong tay khối dự trữ ngoại tệ là 3.000 tỷ đô la để đòi có tiếng nói mạnh hơn trong Quỹ Tiền tệ Quốc tế, mà lại thực tế tung tiền cạnh tranh với hai định chế này để gây thế lực trong các nước nghèo theo hướng trái ngược. Đó là dung dưỡng ách độc tài và tham nhũng, hủy hoại môi sinh của thiên hạ, và lại còn ngấm ngầm mở ra trận tuyến chống các nước dân chủ công nghiệp hóa như Âu, Mỹ, Nhật.


Vũ Hoàng: Nhưng nếu như vậy thì phải chăng là các nước đang phát triển được đặt trước một sự chọn lựa là Tây phương hay Trung Quốc không?


Nguyễn Xuân Nghĩa: Quả thật là như thế, vụ khủng hoảng 2008 và nạn Tổng suy trầm 2008-2009 lẫn những khó khăn tràn ngập của khối kinh tế Âu-Mỹ-Nhật khiến cho khái niệm gọi là "Đồng thuận Washington" coi như bị phá sản. Người ta phê phán những yêu cầu cải cách của Quỹ Tiền tệ IMF và đòi hỏi minh bạch hoá của Ngân hàng Thế giới là phiền phức và lỗi thời, trong khi thấy là lề lối quản lý kinh tế thị trường bằng chính quyền độc tài theo kiểu Bắc Kinh lại có vẻ hữu hiệu hơn! Hậu quả thực tế thì đa số các nước đang phát triển tại Phi châu hay Mỹ châu La tinh ngày nay, nhất là các nước độc tài và tham nhũng lại tin tưởng Trung Quốc và con đường "Đồng thuận Bắc Kinh" hơn là tin vào Hoa Kỳ cùng giải pháp "Đồng thuận Washington"!


Riêng từ giác độ kinh tế chính trị học, tôi thiển nghĩ rằng mối nguy của Trung Quốc không xuất phát từ sức mạnh quân sự dù sao vẫn chỉ có trình độ hàng mã nếu thật sự đụng độ với các đại cường hải dương như Nhật Bản hay Hoa Kỳ. Mối nguy của Trung Quốc xuất phát từ tinh thần, từ chủ trương gieo rắc thói quen hung đồ bá đạo trên toàn cầu để cùng các chế độ độc tài tham nhũng xây vòng đai đối nghịch với các nước tự do và dân chủ. Đấy mới là trận đánh chiến lược!


Từ Bắc Kinh nhìn về VN

Vũ Hoàng: Trở lại vụ "Đồng thuận Bắc Kinh" và nội loạn Trung Quốc, người ta thấy là giải pháp phát triển kinh tế thị trường bằng chế độ độc tài theo kiểu chủ nghĩa tư bản nhà nước vẫn gây ra bất công và bạo động chứ có gì là hài hòa đâu?



Sơ đồ vùng biển đảo đang tranh chấp ở Biển Đông. Việt Nam tập trận bắn đạn thật hôm 13/6/2011. AFP photo Nguyễn Xuân Nghĩa: Hiển nhiên là như vậy thưa ông. Những từ ngữ như "tổng hợp quốc lực", "xã hội hài hòa" hay "quật khởi hòa bình" đều là ngôn từ hoa mỹ của Trung Quốc cho cái thuật trong bá ngoài vương của lãnh đạo Bắc Kinh. Họ cứ nói chữ vương đạo văn minh nhân nghĩa mà thực chất thì toàn dùng trò bá đạo với người dân bên trong và với cả thế giới chung quanh.


Ngày nay, chiến lược phát triển kinh tế của Trung Quốc đã dẫn tới thực tế là gây bất công và bất mãn nên động loạn đang xảy ra, trong khi tai họa về môi sinh thì đã cận kề và sẽ bùng lên bất cứ lúc nào. Bây giờ, việc chế độ phải dàn trận với dân chúng là mặt nổi khó che giấu. Chính là những khó khăn ấy mới khiến họ quậy sóng Đông hải để khích động chủ nghĩa Đại Hán như một thứ nha phiến cho thần dân lầm than bên trong. Nghĩa là ta thấy ra một lúc hai mặt của một đồng tiền và cái gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh" chỉ là trò quảng cáo giả trá mà thôi!


Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, thưa ông, trong hoàn cảnh đó, Việt Nam có những chọn lựa gì?


Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi đoán là ông muốn hỏi rằng lãnh đạo Hà Nội có những chọn lựa gì, chứ người dân không có quyền chọn lựa, trừ một việc là đi biểu tình và có khi lại bị đàn áp về tội yêu nước! Lãnh đạo hai bên đều có vẻ khai thác chủ nghĩa dân tộc cho ý đồ riêng chứ đều không chấp nhận dân chủ và nhân quyền bên trong thì làm sao người dân được quyền chọn lựa?


Còn nếu lạc quan cho rằng lãnh đạo Việt Nam muốn thoát ra khỏi "trật tự Trung Quốc", tức là quỹ đạo áp chế của Bắc Kinh, thì họ nên từ bỏ lề lối quản lý kinh tế kiểu "Đồng thuận Bắc Kinh" vì những nhược điểm đã mười mươi của lề lối này, như bất công xã hội, sự thống trị đầy lãng phí của các tập đoàn kinh tế nhà nước, là nạn tham nhũng được định chế hoá trong một môi trường sinh sống đầy ô nhiễm. Một cách cụ thể về đối ngoại, Việt Nam khỏi cần rút súng ra hăm dọa ai mà chỉ cần chứng tỏ là mình không ngả theo giải pháp của Bắc Kinh với người dân chủ mình. Cụ thể là thực tâm phát huy dân chủ để xây dựng kinh tế thị trường đích thực cho dân được hưởng.

“Lãnh đạo Việt Nam muốn thoát ra khỏi "trật tự Trung Quốc", tức là quỹ đạo áp chế của Bắc Kinh, thì họ nên từ bỏ lề lối quản lý kinh tế kiểu "Đồng thuận Bắc Kinh" vì những nhược điểm đã mười mươi của lề lối này.


Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa

Các nước trong khu vực đều không muốn có xung đột võ trang ngoài Đông hải và đang thẩm xét thực tâm của Việt Nam là có muốn độc lập với Trung Quốc không, hay chỉ là một đồng chí đồng hành đã có những thoả thuận ngầm với Bắc Kinh. Một cách bày tỏ thực tâm trước tiên chính là từ bỏ thói quản lý hung đồ được mạ vàng thành "Đồng thuận Bắc Kinh". Nếu giải phóng người dân khỏi chế độ quản lý ác độc ấy thì Việt Nam huy động được sức mạnh của dân tộc và dễ liên kết với các quốc gia dân chủ trong trường kỳ để bảo vệ quyền lợi của mình. Chứ chẳng ai muốn giúp một chế độ độc tài bất tín chống một cường quốc độc tài bá quyền. Nhìn về dài thì đó là sự chọn lựa giữa "Đồng thuận Bắc Kinh" và "đồng thuận toàn dân", nó khác nhau rất xa!


Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa đã dành cho cuộc phỏng vấn này.



Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.

In bản tin này Email bản tin này

Ý kiến của Bạn
Click here to add your own comment

Xem tất cả ý kiến.